Xem Nhiều 3/2023 #️ Www.honviet.com. Nghĩ Về Vẻ Đẹp Con Rồng Trong Văn Học Dân Gian # Top 8 Trend | Boxxyno.com

Xem Nhiều 3/2023 # Www.honviet.com. Nghĩ Về Vẻ Đẹp Con Rồng Trong Văn Học Dân Gian # Top 8 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Www.honviet.com. Nghĩ Về Vẻ Đẹp Con Rồng Trong Văn Học Dân Gian mới nhất trên website Boxxyno.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Có lẽ do rồng là sản phẩm của trí tưởng tượng, không gần gũi với con người như trâu, chó, lợn, gà…, nên trong văn học dân gian (thành ngữ, tục ngữ và ca dao xưa) hình ảnh con rồng không nhiều. Vì rồng là hình ảnh thể hiện ước vọng một cuộc sống cao sang đẹp đẽ của con người, nên cũng ít câu đề cập cảnh đời lầm than hay oan khuất, khiến ta phải trầm ngâm suy nghĩ hoặc “đau đầu” ăn năn.

Người ta thường tưởng tượng rồng bay giữa trời, nên trước hết, hình ảnh “vòi rồng” trong cơn lốc xoáy được xem là một dấu hiệu dự báo thời tiết: “Rồng đen lấy nước thời nắng/ Rồng trắng lấy nước thời mưa”.

Và cơn mưa hiếm hoi giữa mùa hạ thì đúng là “Mưa tháng sáu máu rồng”.

Trong việc bình phẩm sự đời, muốn tụng khen, nịnh nọt ai, dù chỉ là một cử chỉ bề ngoài hay nết ăn, kiểu mặc, người ta cũng đem rồng ra “đối chứng”: nào là “Ăn như rồng cuốn”, áo quần thì “Thêu phượng vẽ rồng”, học hành thì chữ viết “Như phượng múa rồng bay”, cả đến mộ phần của họ cũng “hoành tráng” hơn thiên hạ: “Mả táng hàm rồng”!

Rồng được phác họa vào thời nhà Lý

Nhưng “lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo”, có khi những sự ví von này lại hàm ý chê bai những kẻ ưa “phách lối”, thích tô vẽ để lòe thiên hạ, nhất là lúc nó được “biểu diễn” với giọng giễu nhại.

Loại người phét lác, không có thực lực ấy thì “lời rồng” cũng chẳng cứu được: “Trong lưng chẳng có một đồng/ Lời nói như rồng, chúng chẳng thèm nghe”.

Tuy vậy, hình ảnh chủ đạo “khoác áo” rồng vẫn là điều tốt đẹp. Ví như khi bạn quý đến nhà, câu cửa miệng là “Rồng đến nhà tôm”, nói chuyện may rủi thì “May hóa long, không may xong máu”.

Hình ảnh con rồng được dùng nhiều hơn cả trong những câu nói về tình bạn, tình yêu đôi lứa. Có được người tình “lý tưởng”, người bạn tri âm thì bảo là “Như rồng gặp mây”. Diễn tả đôi lứa xa cách được gặp lại thì tha thiết và ngậm ngùi: “Mấy khi rồng gặp mây đây/ Để rồng than thở với mây vài lời/ Nữa mai rồng ngược mây xuôi/ Biết bao giờ lại nối lời nước non!”.

“Rồng” bay lượn trên… trời nên luôn quấn quýt với “mây”, nhưng cũng như ở trần thế, vẫn có những anh chồng không may: “Khi đầu em nói em thương/ Bây giờ gánh nặng giữa đường đứt dây/ Tưởng là rồng ấp lấy mây/ Ai ngờ rồng ấp lấy cây bạch đàn!”.

Múa rồng trong tranh Đông Hồ

Và cho dù con rồng là biểu tượng cao quý, nhưng tình nghĩa, tình yêu thủy chung còn quý hơn: “Trăm năm ghi tạc chữ đồng/ Dù ai thêu phượng vẽ rồng mặc ai” và: “Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng/ Chăn loan gối phượng không chồng cũng hư”.

Vậy nên: “Gái có chồng như rồng có vây/ Gái không chồng như cối xay chết ngõng” và: “Làm gái lấy được chồng khôn/ Cầm bằng cá vượt Vũ Môn hóa rồng”.

Hình ảnh người chồng thành đạt – ngày xưa là các sĩ tử đậu cao, được bổ làm quan – thường được gắn với những vật dụng như cái võng, chiếc thuyền có khắc chạm con rồng: “Chồng sang đi võng đầu rồng/ Chồng hèn gánh nặng đè còng cả lưng” và: “Trai ơn vua ngồi võng đòn rồng/ Gái ơn chồng ngồi võng ru con” hoặc là: “Trai ơn vua lúc đua thuyền rồng/ Gái ơn chồng lúc bồng con thơ”.

Rồng trong nghệ thuật phong thủy

Những lời người xưa đúc kết thường là chí lý. “Một người làm quan, cả họ được nhờ” mà! Nhưng không phải ông chồng nào được “võng đầu rồng”, “thuyền rồng” đón đưa cũng có cuộc sống hạnh phúc, có niềm vui sướng như người phụ nữ “ngồi võng ru con”, nhất là khi dân tộc mất độc lập, vua hay quan đều là bù nhìn, hoặc phải làm quan dưới triều vua hư đốn, bạc nhược, người có lương tâm thì dù lắm ruộng nhiều vàng, trong lòng vẫn luôn đau khổ; thậm chí có vị đã phải nổi loạn chống triều đình, bất chấp sẽ bị tù tội.

Tiêu biểu cho loại người này là Cao Bá Quát (1808-1855), ông đã ngồi “võng đòn rồng” mấy nơi nhưng cuối đời lại tham gia cuộc khởi nghĩa của nông dân nên đã bị giết! Ông nổi tiếng vì tài thơ và có nghĩa khí chứ không phải nhờ uy quyền của “rồng”.

Một câu nữa cũng không hẳn đã đúng trong mọi trường hợp: “Trứng rồng lại nở ra rồng/ Liu điu lại nở ra dòng liu điu”. Câu ca dao này cũng đồng nghĩa với câu “Con vua thì lại làm vua…” nặng tư tưởng phong kiến, nhằm bảo vệ ngôi thứ của vua quan, khiến lớp người cùng khổ không còn nghĩ đến chuyện đổi đời.

Tuy vậy, khoa học về “gien” đã chứng minh sự di truyền qua các thế hệ về nhiều mặt. Lịch sử cũng đã ghi lại nhiều trường hợp, thế hệ con cháu đã tiếp nối truyền thống vẻ vang của cha ông. Trong các triều đại Lý, Trần, Lê có thể kể ra rất nhiều những con người như thế; Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Bình Trọng… không chỉ làm rạng rỡ dòng họ của mình mà còn làm sáng danh đất Việt. Nhưng đáng tiếc là cũng từ những dòng họ đó lại nảy sinh loại Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống!…

Thế mới biết, có “dòng giống” tốt, mới chỉ là yếu tố ban đầu. Phải bền chí học tập, rèn luyện, mới nên NGƯỜI. Đó là chưa nói đến thời thế và tác động của môi trường xã hội.

Rồng cũng là nét văn hóa của kiến trúc chùa chiền

Vậy nên, thời nay, khi mà chế độ phong kiến con nối ngôi cha đã lùi sâu vào quá khứ, càng phải rất công tâm, thận trọng trong việc cất nhắc, lựa chọn người nắm giữ quyền lực và tài sản của nhân dân, từ một chủ tịch xã, kế toán trưởng công ty cho đến những cương vị có tầm ảnh hưởng rộng lớn. Đừng vì “con ông cháu cha” mà ưu ái xếp ngồi những “ghế” ngon lành.

Năm Thìn, dân Việt vốn từng tự hào là “con Rồng cháu Tiên”, hy vọng ai cũng gắng sức để góp phần đưa đất nước “hóa Rồng” và cùng được hưởng hạnh phúc của một đất nước sẽ cất cánh cùng những “con rồng” bên biển Thái Bình Dương.

Con Trâu Trong Văn Học Dân Gian

Tranh trâu Đông Hồ.

Có thể nói, tri thức về con trâu xuất hiện sớm nhất và đầy đủ nhất trong tri thức về loài vật của người Việt. Hình ảnh con trâu được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống tinh thần và lao động sản xuất của nhân dân ta từ hàng ngàn năm qua. Truyện cổ tích Trí khôn của ta đây có sự hiện diện của con trâu, lý giải nguyên nhân của việc trâu không có răng ở hàm trên. Truyện ngụ ngôn Lục súc tranh công, nhắc tới trâu là con vật đầu tiên, cùng với các vật nuôi trong nhà có công sinh ra thóc, gạo, ngô, đỗ cho con người.

Rõ ràng, con trâu được nhà nông coi như một phần không thể thiếu trong đời sống. Nên trâu được coi như người bạn thân thiết, cùng chia ngọt sẻ bùi với người nông dân. Trong ca dao tục ngữ, hình ảnh trâu xuất hiện thường xuyên, gắn với đời sống lao động sản xuất của nhà nông: Ruộng đầm nước cả bùn sâu/Suốt ngày anh với con trâu cày bừa.

Hoặc:

Trâu ơi ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng, trâu cày với ta, Cấy cày vốn nghiệp nông gia, Ta đây trâu đấy ai mà quản công, Bao giờ cây lúa gặt bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn Trên đồng cạn dưới đồng sâu Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa.

Con trâu là đầu cơ nghiệp, là nguồn sống của người nông dân; nên người xưa đã đúc rút các câu thành ngữ, tục ngữ về kinh nghiệm để chọn được trâu tốt: Mắn đẻ cày tài, Mua trâu xem sừng, mua chó xem lưng; Trâu cổ cò, bò cổ giải; Lang đuôi thì bán, lang trán thì nuôi; Đầu thanh, cao tiền, thấp hậu, chẳng tậu cũng hoài; Sừng cánh ná, dạ bình vôi, mắt ốc nhồi, Ăn ra lôi, cày ra thép; Trâu to ngà, càng già đường kéo; Da đồng, lông mốc, Đầu thanh, mặt nhẹ, khô chân/Vai cao, mình thẳng, mặt gân, sườn tròn/Chùng đùi, thắt quản, ngắn đuôi, to ngà, móng hến thì nuôi đáng tiền.

Trong nhiều câu ca dao, tục ngữ,  hình ảnh trâu còn xuất hiện để răn dạy người đời, hoặc truyền đạt các kinh nghiệm sống như: Làm ruộng phải có trâu/  Làm dâu phải có chồng; Tậu trâu xem vó, lấy vợ xem nòi; Làm ruộng không trâu như làm giàu không thóc; Một trâu anh sắm đôi cày/Một anh hai vợ có ngày oan gia/Tan đàn xẻ nghé không xa!; Có cưới thì cưới con trâu/Đừng cưới con nghé nàng dâu không về; Vợ dại thì đẻ con khôn/Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm; Trâu chậm thì anh bán đi/Rựa cùn đánh lại, vợ thì làm sao.

Trâu thân thiết là thế, có sức khỏe, hiền lành là thế; nên được người nông dân rất tín nhiệm: Trâu gầy vẫn tầy bò khỏe; Yếu trâu hơn khỏe bò; Thà chết ở vùng chân trâu/Còn hơn chết rụi ở khu đĩa đèn; Trâu ta ăn cỏ đồng ta/Tuy là cỏ vét nhưng là cỏ thơm…

Vì tín nhiệm, nên có nhiều câu ca dao, tục ngữ rất đề cao trâu. Người nông dân coi việc có được con trâu tốt là một việc hệ trọng nhất thiết phải làm trong đời người, là có được một tài sản giá trị: Tậu trâu, cưới vợ làm nhà/Trong ba việc ấy thật là khó thay; Ruộng sâu trâu nái;…

Con trâu không chỉ đóng vai trò quan trọng sản xuất nông nghiệp, mà còn được coi là linh vật trong nhiều lễ hội của người nông dân. Nhiều nơi tổ chức hội chọi trâu để tìm ra trâu thắng cuộc làm vật tế thần, cầu cho mưa thuận gió hòa, nhà nhà bình an, làm ăn tấn tới. Nên có câu ca: Dù ai buôn đâu bán đâu/Mồng mười tháng 8 chọi trâu thì về. Năm 2003, SEA Game 22 do Việt Nam đăng cai tổ chức cũng lấy hình tượng trâu vàng làm linh vật, là biểu tượng của thể thao Việt Nam. 

Thân thiết, gắn bó với nhà nông vốn vất vả một nắng hai sương, nên trâu xuất hiện trong nhiều câu ca với thân phận lam lũ: Kiếp trâu ăn cỏ, kiếp chó ăn dơ; Trâu chết mặc trâu, bò chết mặc bò; Trâu lành chẳng thấy ai mừng, trâu ốm – lắm kẻ mài dao; Trâu có đàn, bò có lũ, chớ để thân trâu trâu lo, thân bò bò liệu.

Đôi khi, hình ảnh trâu được xuất hiện trong những sắc thái không mấy tích cực: Trâu buộc lại ghét trâu ăn/Quan võ lại ghét quan văn dài quần; Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã; Việc để lâu tựa cứt trâu hóa bùn; Sừng trâu cong khó uốn, kẻ ương ngạch khó dạy thành người; Đầu trâu mặt ngựa…

Đời sống tinh thần và lao động sản xuất của người Việt Nam đã ghi nhận vai trò không thể thiếu của con trâu từ xa xưa đến nay. Hình ảnh con trâu siêng năng, cần cù, khỏe mạnh gắn liền với lũy tre làng là một trong những biểu tượng của văn hóa Việt. Ngày Xuân Tân Sửu, điểm lại những hình ảnh trâu trong văn học dân gian để càng hiểu hơn nét văn hóa ấy.

Văn Học Dân Gian Quảng Trị

  Văn Học Dân Gian Quảng Trị

Văn hoá nói chung, là biểu tượng của mọi lề lối, phương thức sinh hoạt từ tiếng nói, tập tục, cách ứng xử, lễ hội, tín ngưỡng đến cách ăn mặc, lời ru, tiếng hát… gom lại; là cốt cách, sức sống… của một cộng đồng dân cư từ nhỏ đến lớn. Chưa có một kết luận cụ thể nào xác định thời điểm có mặt của người Việt tại vùng đất Quảng Trị, chỉ biết một điều là đã được diễn tiến bởi nhiều đợt di dân qua hàng bao thế kỷ. Cội nguồn của người Việt được hình thành trong vùng châu thổ các sông ở miền Bắc, tạo dựng một nền văn minh, văn hoá nông nghiệp. Những người di dân vào Nam vẫn mang theo truyền thống ấy.

Quảng Trị là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu hò; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Hò Vè với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đã tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào đó.

Quảng Trị là một dải đất hẹp nhưng có nhiều hệ sinh thái, nhiều khu vực nông nghiệp khác nhau, không phải là một nơi dễ dàng làm ăn sinh sống, hàng ngày người dân đối mặt với nhiều thứ khắc nghiệt. Do bản năng sinh tồn, họ chiến đấu và chiến thắng mọi gian nguy để tồn tại và phát triển. Góp phần vào việc giảm bớt sự căng thẳng để tạo nét hài hoà trong sinh hoạt đời thường, họ nghĩ ra những thứ để thưởng ngoạn, vui chơi dân giả. Đó là những chuyện thần thoại, chuyện cười, những nhân vật có óc khôi hài, châm biếm, những câu ca, lời ru tiếng hát, điệu hò; tất cả do mang một nét đặc thù Quảng Trị, một nền văn học dân gian. Trong phạm vi một bài viết ngắn chúng tôi chi giới thiệu những thể loại có tính cách đại chúng là Thơ Ca Hò Vè với một số nội dung tiêu biểu mà xin bỏ qua những mẫu chuyện, những con người đã tạo nên sắc thái vui tươi thú vị nhưng chỉ hạn hẹp trong một địa phương nào đó.

Thơ Ca Hò Vè là sản phẩm của nông dân, phản ảnh bao trùm mọi sinh hoạt với một loại ngôn ngữ bình dân mang tính đại chúng, cho thấy rõ nét cái chơn chất mộc mạc nhưng thắm đậm nhân tính của con người Quảng Trị. Tạm thời có thể sắp xếp theo các thể loại sau:

I / Tục ngữ:

A. Về thời tiết và sản xuất

Cò ăn ruộng sâu thì nắng

Cò ăn ruộng cạn thì mưa

Công cấy thì bỏ, công làm cỏ thì ăn

Chớp ngã Cồn Tiên, mưa liền gặp trộ

Đập đất nhỏ, luống đánh to

Xung quanh rắc đậu, trồng ngô xen vào

Đói thì ăn môn ăn khoai

Đừng thấy ló lỗ giêng hai mà mừng

Trăng rằm đã to lại tròn

Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi

Xứ Cùa đất đỏ ba dan

Ai ơi trồng mía làm giàn thả tiêu

B. Về đời sống xã hội

Liệu cơm mà gắp mắm ra

Liệu cựa liệu nhà mà gả con vô

Khun ba năm không ai biết

Dại một giờ bạn hay

Đi buôn bữa lỗ bữa lời

Ra câu giữa vời bữa có bữa không

Ai ơi chớ lấy học trò

Dài lưng tốn vải ăn no lại nằm

Khoai lang cổ bở cổ trân

Làm rễ họ Trần cực lắm ai ơi

Bỏ công múc nước đường xa

Có trong thì múc, ngà ngà thì thôi

Sui gia là bà con tiên

Ăn ở không hiền là bà con quỷ

II / Câu đố:

Hai người ở hai buồng

Ngó đi nhìn lại như tuồng cấm cung

Đêm về sập cửa thả chông

Ngày thì vòi vọi đứng trông nhau hoài

(Hai con mắt)

Gặp nhau đây bất luận đêm ngày

Lật ra xem thử lỗ này ở đâu

Đâm vô thì rút ra mau

Đừng để trung nớ mà đau lòng nàng

Rút ra máu chảy tràn lan

Khi nớ duyên thiếp, nợ chàng ngái xa

(Đạp gai)

Họ hàng chỉ sống trên non

Tìm cây hút nhụy nuôi con tháng ngày

Không may lửa dậy khói bay

Thảm thương ấu tử sống rày thác mai

(Tổ ong bị đốt)

Cây xanh mà lá cũng xanh

Dầm mưa dãi nắng theo anh võ vàng

Một mai lửa đỏ thành than

Mây bay khói lượn truớc mặt chàng, chàng ơi

(Cây thuốc lá)

III/ Vè:

Một thể loại truyền khẩu rất phổ thông, dễ nhớ, thường là mô tả cảnh sinh hoạt ở nông thôn, một nhân vật đặc biệt, đôi khi nêu thói hư tật xấu với dụng ý giáo dục .

A. Vè Ba Lòng:

Thanh trời rạng thấy núi xây

Rừng xanh suối bạc đáo vầy tứ phương

Trà Trì, Văn Vận hai phường

Đá Nầm, Chinh Thạch giao lương thuận hòa

Tháng năm bắp đã tới mùa

Chè thơm mít chuối bên Cùa gánh sang

Bao nhiêu thao vải, lụa hàng

Vật gì phường chợ cũng băng ngàn trải lên

Đò thì mắm nục, mắm nêm

Đò thì cá khô, muối ruốc cũng mang lên tại phường

Đò thì gạo, nếp, trứng, đường

Đò thì vàng bạc, lược, gương, cau trầu

Đò thì ghè, đục, ang, âu

Tréc, om, trình thống, dĩa dầu, bình vôi

Buôn chi thì nỏ có lời

Lưỡi cày, lưỡi cuốc, núc, nồi, đá, dao

Buôn chi than, vải lụa thao

Nhuộm màu xanh lục, rêu rao thêu thùa

Bao nhiêu cũng nhờ hột bắp mà thôi

Rồi mùa ngó lại, giơ cồi với mao

B. Vè thằng nhác

Lẳng lặng mà nghe

Kể vè thằng nhác

Gia đình khổ cực

Vợ yếu con thơ

Chồng ai được nhờ

Chẳng nên trò trống

Nửa ngày thức dậy

Lục đục soong nồi

Vắt áo đi chơi

La cà hàng xóm

Vợ nhờ cày ruộng

Tao bị đau chân

Vợ nhờ quét sân

Đau lưng vẹo cổ

Vợ nhờ bửa củi

Cái búa nó hư

Vợ bảo đi bừa

Sợ rằng trâu húc

Vợ nhờ đi gặt

Tao gánh đau vai

Thở ngắn than dài

Tội tình chị vợ

Ấy thế mà!

Nồi cơm vừa dở

Chưa kịp ai mời

Cúi cổ cúi tai

Một hồi chén sạch

Là cái thằng nhác

Ăn dữ không làm

Hỡi xóm hỡi làng

Nghe vè thằng nhác

C. Vè con gái

Nghe vẻ nghe ve

Nghe vè con gái

Tay chân mềm mại

Khác thể bông ba

Chờ mẹ đi ra

Cắp tiền thu dấu

Muốn ăn khoai nấu

Muốn ăn khoai nướng

Muốn ăn xôi chè

Ăn rồi ngồi xếp bè he

Cái lưng bơ bừng cái thúng

Ăn chùng ăn vụng

Cho sướng cái thân

Việc nỏ muốn mần

Dôông thì muốn lấy

Áo năm bảy cấy

Mược vào đi chợ

Béng ướt dụy tôm

Hai tay bóoc lá

Lộ mồm hả ra

IV/ Đồng dao

Bập bong bong tay mô khôông tay mô có

Bập bò bọ tay mô có tay mô khôông

Chị lấy dôông em ở quá

Chị ăn cá em mút xương

Chị đường em mật

Chị vật em coi

Chị voi em ngựa

Chị bựa em bèn

Chị kèn em trống

Chị trống em mái

Chị méo em tròn

Hai hòn về chị

Rầm rà rầm rì

Xây lúa Đồng Nai

Cơm gạo phần ngài

Tấm cám phần tui

Lờ đệng cháy nhà

Bà già chạy chựa

Cháy nửa bồ thóc

Lóc cóc chạy về

Ông Đề hỏi răng

Cu Nhăng cắn nhện

Heo chi – Heo lang – Lang chi – Lang cẳng – Cẳng chi – Cẳng giò – Giò chi – Giò móng – Móng chi – Móng heo

V/ Câu đối

Văn vận tuột quần Văn vận vận

Bích La đau bụng Bích La la

Cam Lộ buôn cam, Cam Lộ Lộ

Bích giang không nón, Bích giang giang

Tân Trúc trồng tre, thở hoi hóp

Đông Hà xúc hến hát ngêu ngao

VI/ Ca dao

Ca dao chiếm phần lớn nhất trong văn học dân gian, biểu hiện tâm hồn giàu tình cảm, phóng khoáng của người nông dân, một thứ tình cảm bình dị chơn chất trong sáng như cuộc đời hiền hòa đôn hậu của họ, được thể hiện trong mọi tình huống, hoàn cảnh về gia đình, xã hội, đặc biệt là về tình yêu đôi lứa, một đề tài muôn thuở

Quan hệ gia đình

Biết răng chừ cá gáy hóa rồng

Để đền công ơn Thầy Mẹ ẵm bồng ngày xưa

Chị em như chuối nhiều tàu

Tấm lành che tấm rách, đừng nói nhau nặng lời

Cây kia ăn quả ai trồng

Sông kia uống nước hỏi giòng từ đâu

Cơ đồ gầy dựng bấy lâu

Công lao tiên tổ lẽ đâu quên hoài

Mộ phần gìn giữ hôm mai

Những ngày lễ tết chẳng sai lệ thường

Có chồng rồi khác chi con ngựa có dây cương

Lôi mô chạy nấy khổ trăm đường ai ơi

Còn cha gót đỏ như son

Một mai cha chết, gót con đen sì

Mẹ già ham việc tiếc công

Cầm duyên con lại thu đông mãn rồi

Mãn rồi cai đội hồi hương

Trai về làm ruộng, gái buôn nuôi chồng

Ra đi bố mẹ ở nhà

Gối nghiêng ai sửa, chén trà ai bưng

Quan hệ xã hội

Ai về Đông Hà, ai qua Cam Lộ

Ai về Gia Độ, ai đến Gio Linh

Ai về Triệu Phong, Quảng Trị quê mình

Cho em nhắn gởi chút tình nhớ thương

Bạn về không có chi đưa

Môn khoai đang dại, mít dừa đang non

Cây cao bóng mát chẳng ngồi

Lại ngồi trửa nắng trách trời không dim

Cây khô xuống nước cũng khô

Phận nghèo đi tới chỗ mô cũng nghèo

Con quan lấy đứa mần than

Nắng mưa phải chịu cơ hàn phải theo

C . Quan hệ lứa đôi

Trăng lên tới đó rồi tề

Nói chi thì nói, em về kẻo khuya

Bướm vàng đậu đọt cau tơ

Kiếm cái nơi mô nương tựa

Chơ răng cứ vất vơ rứa hoài

Chàng ơi phụ thiếp làm chi

Thiếp là cơm nguội những khi đói lòng

Đi mô cho thiếp đi cùng

Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp theo

Cam chua, quýt ngọt… bồng the

Thấy em nho nhỏ, anh ve anh để dành

Xa anh có bấy nhiêu ngày

Tình em như mảnh trăng gầy nửa đêm

Hai ta mót củi một cồn

Bứt tranh một chỗ, tiếng đồn thật xa

Em đương vút nếp hong xôi

Nghe anh lấy vợ, thúng trôi nếp chìm

Ai hay nông nổi mần ri

Ngày xưa ở rứa, vội chi trao lời

Anh đã có vợ thời thôi

Không phải mắm nêm chuối chát mà muốn moi cho nhiều

Anh về đừng có ngó lui

Để em ngó dọi ngùi ngùi thêm thương

Anh đưa em lên đến ngã tư sòng

Em trở Về Cam Lộ, anh trở lại Triệu Phong với ai chừ

Được nên chồng nên vợ thì hay

Rủi thời đói khổ có ăn mày cũng phu thê

VI. Hò:

Hò là thể loại dân ca phong phú, đa dạng, có tính quần chúng và mang nét đặc thù Quảng Trị Đó là một hình thức sinh hoạt sôi nổi, được diễn ra trong công việc đồng áng, lễ hội hay là một cách giải trí trong buổi nông nhạn Có nhiều điệu hò và cách hò tùy theo không gian thời gian, lao động nặng nhọc khác nhaụ Quét vôi thì hò hụi, giã gạo thì hò khoan, hò hô, chèo đò thì hò mái nhì, nếu đò mắc cạn thì hò mái đảy, hò rủ rơm, hò đánh bài thai, bài chòi, hò kéo gỗ, hò ru và hò đối đáp… Ở đây chúng tôi xin giới thiệu mấy điệu hò tiêu biểu:

A. Hò ru:

Tất cả chúng ta đều lớn lên từ 4 tao nôi và lời ru của Mẹ. Làn điệu ngọt ngào êm dịu như đã thấm vào máu thịt xương tủy và cũng lớn lên theo giòng đời . Qua năm tháng nổi trôi, lời ru luôn luôn là sự gợi nhắc tình cảm, nghe mãi nhưng nghe lại vẫn không khỏi bồi hồi:

Khi con thức Mẹ cho con bú

Khi con lú Mẹ lại ru hời

Nuôi con cực lắm con ơi

Chỉ mong cho con lưng dài vai rộng

Để lấp biển vá trời như ai !

Mẹ thương con ngồi Cầu Ái Tử

Vợ trông chồng đứng núi Vọng Phu

Mai đây bóng xế trăng lu

Con ve kêu mùa hạ

Biết mấy thu đợi chờ

Em nghe anh đau đầu chưa khá

Em đây băng đồng chỉ sá bẻ nạm lá qua xông

Ước làm sao cho nên đạo vợ chồng

Đổ mồ hôi ra em chặm

Lại ngọn gió lồng em che

Ru hời ru hỡi là ru

Bên cạn thời chống bên su thời chèo

Xây thành đắp lũy trên non

Cắm hoa dưỡng nước nuôi con tháng ngày

Một mai lửa dậy khói bay

Con ơi ! Mẹ không biết sống rày thác mai

Ơn cha ba năm báo bổ

Nghĩa mẹ chín tháng cưu mang

Bên ướt Mẹ nằm bên ráo con lăn

Lấy chi trả nghĩa sinh thành

Lên non tạc đá xây lăng phụng thờ

B. Hò đối đáp:

Là một thể loại văn nghệ tự túc độc đáo dược phổ biến rộng rãi trong mỗi làng quê Quảng Trị trong thập niên 30, 40. Những lúc nông vụ đã tạm ổn, vào những đêm trăng, đâu đâu cũng nghe tiếng hò rộn ràng sôi nổi tạo nên một không khí tưng bừng vui vẻ. Có thể chia làm hai loại: Hò ân tình và Hò đâm bắt.

1) Hò ân tình

Loại này đơn giản dễ hò, có thể lấy từ câu đố, một cốt chuyện đã có sẵn, chỉ cần nhập vai là hò được hoặc đôi bên đối đáp về những chuyện trời trăng mây nước vô thưởng vô phạt Địa điểm hò thường được chọn ở những nhà rộng rãi thoáng mát để có được đông đảo khán giả tham dự. Thường thì các cô gái đã đợi sẵn còn các chàng còn vòng vòng ngoài ngõ hay trước sân:

Ai đứng ngoài đường cho muỗi cắn ho kêu

Vô đây phân giải đôi điều cho vui

Các chàng chỉ đợi có thế mạnh dạn bước vào:

Chào lê chào lựu chào đào

Ai xa chào trước ai gần chào sau

Chào bên nam mất lòng bên nữ

Chào người quân tử sợ dạ thuyền quyên

Cho anh chào chung một tiếng kẻo chào riêng khó chào

Ai có chồng thì khuyên chồng đừng sợ

Ai có vợ thì xin vợ đừng ghen

Ra đây ta hò hát cho quen

Rạng ngày ai về nhà nấy…

Khá thể ngọn đèn hai tim

Đó là màn dạo đầu, cuộc hò sẽ tiếp tục:

Nữ: Đố anh chi sắc hơn dao

Chi sâu hơn biển, chi cao hơn trời

Nam: Con mắt em sắc hơn dao

Lòng sâu hơn biển, trán cao hơn trời

Nữ: Bánh cả mâm răng kêu bánh ít

Trầu cả chợ răng gọi trầu không

Ai mà đối đặng làm chồng nữ nhi

Nam: Chuối không đi tây răng kêu chuối sứ

Cây không đi học răng kêu cây thông

Anh đã đối đặng em theo chồng về mau

Nữ: Nghe anh thuộc sách Kinh Thi

Hỏi anh con cá nằm dưới cỏ gọi là con cá chi rứa anh hè

Nam: Anh đây thuộc sách Kinh Thi

Con cá nằm dưới cỏ anh nghĩ là con cá tràu

Nữ: Em như bông sen trong hồ

Các anh như bèo như bọt nhìn chi được cơ đồ nơi em

Nam: Nước lên cho sóng cuộn theo

Cho sen chìm xuống bèo trèo lên trên

Nữ: Em đây như con rồng vàng

Chín tầng mây phủ nằm ngang giữa trời

Nam: Anh đây có phép thần thông

Vén mây cỡi gió bắt con rồng coi chơi

Nữ: Em đây như chiếc chuông vàng

Treo trong thành nội có hàng ngàn quân canh

Nam: Quân canh dù mấy chục ngàn

Dùi chiêng anh mang sẵn, anh nện chuông vàng đứt đôi

Kiến bò cột sắt sao mòn

Con vò vò xây tổ sao tròn mà xây

Kiến bò cột sắt thành đàn

Con vò vò xây tổ khám vàng cũng xây

Thương thay các cậu chự bò

Cái lưng môốc thếc thếc

Bộ giò đen thùi thui

Em về dở sách ra dò

Cha em lúc trước cũng chự bò như anh

Trai không vợ như chợ không đình

Mưa dông một trộ ghé mình vào đâu

Trai chưa vợ lo phò vua vệ quốc

Chợ không đình tại thợ mộc suy vi

Sao không lo phận thiếp lại đi hỏi chàng

2) Hò đâm bắt:

Thường là đối đáp giữa trai và gái, loại này đòi hỏi một khả năng thiên phú: Thông minh, nhanh nhẹn, tháo vát. Đối thủ luôn luôn tạo bất ngờ, không có thì giờ suy nghĩ, chọn lựa. Người ra chiêu có lợi thế hơn (thường là nữ) đi những đường quyền móc họng, phạm thượng. Ngôn ngữ ở đây thuộc loại dân gian dung tục, các danh hò thường không né tránh bất cứ một từ ngữ nào miễn đạt được hết ý và đưa đối phương vào thế hiểm hóc (Nhân đây cũng xin mở một dấu ngoặc về loại văn chương này vì gần đây trên văn đàn hải ngoại, nhà lý luận phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc có đưa ra bản thảo về ngôn từ dung tục trong văn học dân gian miền Nạm đại khái như: Vân Tiên ngồi núp bụi môn. có một vài từ đại loại như thế, kính mong các bậc trưởng thượng thông cảm:

Trong đêm hò tại vùng Long Quang Linh Yên, một siêu hò đã đánh đòn phủ đầu các nam nhi:

Anh ra chi mỗi tháng mỗi ra

Cực lòng em lắm mẹ cha hỏi hoài

Mới nghe tưởng là một lời trách móc trữ tình, thực ra chị này đem “việc riêng” của mình ra để so sánh xưng tụng thật là hết ý . Một số ngượng nghịu bỏ về. Có người đáp lại nhưng sống sượng, thiếu hấp dẫn:

Anh ra ba em cũng ra

Anh còn sống, ông cụ thác xuống ngã ba mất rồi

Một hôm khác tại Gia Đẳng:

Tiếng đồn em học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi

Con bò cái đi trước, con bò đực đi sau, nó cười chi rứa eng hè

Anh học hết sách quốc ngữ, hết chữ Kinh Thi, con bò cái đi trước, con bò đực đi sau nói cười nó cọ, nó đo-u sao thiếp không biết lại đi hỏi chàng

Vùng Đá Nầm, Đá Nổi ở Ba Lòng cũng một thời nhộn nhịp: những lúc nông nhàn trai tráng miệt đồng lên khai thác lâm sản và những đêm hò lại diễn ra:

Liệu bề đát được thì đan

Chớ đừng đan rồi để đó mà thế gian chê cười

Cô gái có vẻ kênh kiệu, coi thường chàng trai, nhưng chàng ta bình tĩnh tung đòn phản công rất ngoạn mục:

Anh đây đan cũng giỏi, đát cũng tài

Lận thì đè côi đè xuống, còn nức thì xỏ ngoài xỏ vô

Đến hiệp hai thì nam danh hò bối rối:

Ra đường lại gặp anh Ba

Anh ở “trung nớ” anh ra răng chừ ? !!!

Chàng ta xin khất, đi tìm bà cô: là một danh hò đã gác kiếm, sau khi hối lộ một xấp thuốc Tầm Bỏi, bà đã chỉ cho câu đáp, mặc dầu không sâu sắc lắm nhưng cũng đỡ mất mặt:

Anh ở trung nớ mới ra bựa qua

Cùng ra có cậu bên nhà kết nghĩa thầy trò

Anh nhanh chân anh tới trước còn cậu lò dò theo sau !!!

Có những cô gái thật là lì lợm lém lỉnh đôi khi làm các chàng trai yếu bóng vía phải ngọng nghịu chùn chân:

Anh làm thợ mộc khéo đã ra chi khéo

Đóng bức đố xéo đã ra chi tài

Răng không giơ cái lại chàng ra chắn mộng để thòi lòi mộng ra

Tuy thế vẫn có những nam nhi thông minh lanh lợi, đáp lại vô cùng thỏa đáng:

Anh đã đưa cái lại chàng ra chắn mộng

Mà thầy mẹ bên nhà khoát khoát khoan khoan

Để khi đi về móc áo, lỡ chừng treo khăn

Cũng đã có cô gái bạo mồm bạo miệng tung chưởng vào đối phương:

Em mua cho anh cái dù tám cóng

Dưới có mốc đồng

Răng anh không đội

Để đầu không rứa hè

Nhưng đối thủ của nàng không phải tay vừa, đã bình tĩnh phản công:

Cái dù tám cóng dưới có cái móc đồng

Em đem về cho cha em đội cho nội em che

Phận anh là rễ đội nón tre quen rồi

Đôi khi lời đối đáp thật hóm hỉnh, thông minh:

Tiếng đồn em lấy chồng già

Đêm nằm em thấy ớt cà ra răng

Tre già còn dẻo hơn măng

Ớt cà tra có hột, chớ hơn thằng ớt tơ

Văn nghệ dân gian như đã nói là một chất liệu ngôn ngữ hòa tan trong tâm thức của mọi người, nó như mạch ngầm ẩn dấu đâu đó tưởng chừng quên nhưng chỉ một giây lắng đọng khắc khoải, sẽ bừng dậy những nỗi nhớ niềm thương da diết. Đó là một kho tàng vô tận tiềm ẩn trong mỗi người Quảng Tri, không thể có một công trình tìm kiếm hoàn chỉnh .Trong phần lược ghi với một ít nội dung tượng trưng, hy vọng tạo được một khoảnh khắc thanh thản khi nhớ về quê hương.

Lê Văn Trạch

 

Tìm Hiểu Những Yếu Tố Triết Học (Hay Triết Lý Dân Gian) Trong Tục Ngữ Việt Nam :: Suy Ngẫm &Amp; Tự Vấn :: Chúngta.com

Tục ngữ và triết học là hai lĩnh vực, hai hiện tượng ý thức xã hội khác nhau. Tục ngữ thuộc lĩnh vực nghệ thuật, là một thể loại văn học dân gian (folklore), còn triết học thuộc lĩnh vực khoa học, là khoa học về thế giới quan và phương pháp luận.

Tri thức của tục ngữ là tri thức dân gian, được rút ra trên cơ sở quan sát và miêu tả cái cụ thể, đó là những tri thức kinh nghiệm, những “lẽ phải thông thường”. Còn triết học – triết học nào cũng đi xa hơn “lẽ phải thông thường là tri thức khoa học, là hệ thống những quan niệm, quan điểm về thế giới, là sự tổng hợp và khái quát ở mức độ chung nhất và cao nhất những quy luật vận động của tự nhiên, của xã hội, của con người, của tư duy. Tục ngữ là văn học dân gian nên tác giả của nó là tập thể, là quần chúng nhân dân, còn triết học là một môn khoa học nên tác già của một hệ thống hoặc một tác phẩm triết học bao giờ cũng là cá nhân – là những người hoạt động trí óc chuyên nghiệp, có khả năng tư duy lý luận và có năng lực khái quát cao. Xét về cội nguồn, về thời điểm ra đời tục ngữ cũng có trước triết học. Tục ngữ đã có từ trong xã hội nguyên thuỷ, nhưng trong xã hội nguyên thủy thì chưa thể có triết học, nhiều lắm là chỉ có những mầm mống của tư tưởng triết học, hay là tư duy tiền triết học phải đến thời đại văn minh, tức là khi xã hội đã phân chia giai cấp thì triết học thực sự mới có điều kiện ra đời, nghĩa là trình độ tư duy trừu tượng và các tri thức khoa học của con người đã phát triển đến mức đòi hỏi và có khả năng khái quát các tư tưởng triết học.

Tục ngữ tuy không phải là triết học nhưng về phương diện nào đó nó rất gần gũi với triết học. Tục ngữ được làm ra với mục đích triết lý, luôn luôn cố gắng phát hiện ra bản chất và tính quy luật của các sự vật và hiện tượng tự nhiên, xã hội và đời sống con người. Do đó nhiều người gọi tục ngữ là “‘triết lý dân gian”, “triết học của nhân dân lao động”. Điều đó được thể hiện ở chỗ trong nội dung tục ngữ có chứa đựng những yếu tố của tư tưởng triết học, nghĩa là những tư tưởng triết học không được thể hiện một cách đầy đủ và chặt chẽ như những quy luật, nguyên lý và mệnh đề triết học mà nó chỉ được thể hiện một phần nào đó và bằng cách nào đó trong nội dung của tục ngữ.

Về mặt thế giới quan, tục ngữ Việt Nam đã phản ánh những nhận thức có tính duy vật tự phát, thừa nhận sự tồn tại và vận động khách quan của thế giới không phụ thuộc vào con người: ” Chạy trời không khỏi nắng“, ” Chạy mưa không khỏi trời“, “trời”, “nắng”, “mưa” ở đây chính là hiện thực khách quan. Sự vật và hiện tượng khách quan tồn tại, vận động và phát triển theo quy luật vốn có của nó: ” Trăng đến rằm thì tràng tròn, sao đến tối thì sao mọc“, ” Còn da lông bọc, còn chồi nẩy cây“. Tư tưởng duy vật của nhân dân lao động còn được thể hiện ở thái độ phản đối những chuyện mê tín dị đoan và những người làm các nghề đó: ” Thầy bói nói dựa“, ” Bói ra ma, quét nhà ra rác “.

Nhân dân lao động còn thể hiện tư tưởng duy vật của mình trong việc nhìn nhận và giải quyết các vấn đề về đời sống xã hội. Đó à một thứ chủ nghĩa duy vật trực quan, chất phác, ngây thơ, xuất phát từ kinh nghiệm. Quan điểm duy vật đó được thế hiện một cáchh đơn giản và sinh động: ” Có thực mới vực được đạo “. “Thực” ở đây có thể là ăn, là lương thực, là kinh tế như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng vận dụng trong những trường hợp cụ thể khác nhau. Nhưng dù sao, “thực” cũng là một cơ sở kinh tế, là đời sống vật chất là tồn tại xã hội, còn “đạo” nghĩa là sự nghiệp, là lý tưởng hoạt động thuộc lĩnh vực kiến trúc thượng tầng, là đời sống tinh thần, là ý thức xã hội. “Thực” vực “đạo”, nghĩa là vật chất quyết định tinh thần, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.

Con người là chủ thể xã hội, nhưng cũng là một sinh vật. Đối với mọi sinh vật, ăn phải là nu cầu hàng đầu: ” Mẻ không ăn cũng chết“. Những con người thì không chỉ có ăn, mà sau ăn phải là mặc: ” Được bụng no còn lo ấm cật“. Và khi có ăn có mặc rồi thì con người không lo chết đói chết rét nữa: ” Cơm ba bát, áo ba manh, đói không xanh, rét không chết “.

Nhưng muốn có ăn, có mặc thì phải lao động vì như Engen nói: “lao động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống con người”. Vốn là những người lao động nên nhân dân ta rất coi trọng lao động và thấy rõ giá trị của lao động: ” Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn“, ” Có khó mới có miếng ăn“, ” Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ “…

Nói đến xã hội, nói đến lao động thì phải nói đến chính bản thân con người, vì không có con người thì không có xã hội, không có lao động. Bởi vậy xưa nay triết học Đông Tây đều bàn về con người rất nhiều. Tục ngữ ta có câu; ” Người ta là hoa đất ” – một câu nói chỉ có năm từ thuần Việt mà thể hiện sâu sắc quan niệm cả về vũ trụ và nhân sinh, với một tư tưởng nhân văn cao đẹp.

Nói về con người và giá trị con người, tục ngữ ta thường so sánh người và của bao giờ cũng đặt người trên cao hơn rất nhiều: ” Người làm ra của, của không làm ra người“, ” Một mặt người hơn mười mặt của“, ” Người sống hơn đống vàng“… Đương nhiên, trên thực tế tuy cùng là “người” nhưng không phải ai cũng như ai, cũng như tuy cùng là “của” nhưng không phải cái gì cũng có hai trị như nhau, vì thế tục ngữ ta cũng có phân loại: ” Người ba bẩy đảng, của ba bẩy loài “.

Đi đôi với tư tưởng duy vật tự phát, trong tục ngữ Việt cũng chứa đựng rất nhiều những yếu tố của tư tưởng biện chứng. Đó là cách nhìn nhận các sự vật và hiện tượng không phải ở trạng thai đứng im, bất biến mà ở trong sự vận động, biến đổi và phát triển và luôn luôn liên hệ điều đó với đời sống con người: “Trời còn có khả năng khi mưa, ngày còn khi sớm khi trưa nữa người“, ” Người có lúc vinh, lúc nhục, nước có lúc đục lúc trong“, ” Ai giàu ba họ, ai khó ba đời“, ” Hết cơn bĩ cực đến kỳ thái lai“, ” Tre già măng mọc“, ” Con chị nó đi, con dì nó lớn “…

Các sự vật và hiện tượng không tồn tại độc lập, tách rời nhau: mà giữa chúng có những mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau với mức độ và phạm vi khác nhau tùy theo từng đối tượng cụ thể: ” Mạ nhờ nước, nước nhờ mạ“, ” Hồ cậy rừng, rừng cậy hồ“, ” Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng“, ” Gần lửa rát mặt“, ” Cháy thành vạ lây“, ” Con sâu bỏ rầu nồi canh“, ” Thớt trên mòn, thớt dưới cũng mòn‘, ” Trâu bò đánh nhau ruồi muỗi chết“, ” Cả nhà làm quan cả họ được cậy, một người làm bậy cả họ mất nhờ“, ” Lê tồn Trịnh, tại Lê bại Trịnh vong “…

Mối quan hệ giữa số lượng và chất lượng được tục ngữ thể hiện khá phong phú và sinh động, tuy không phải dùng đến khái niệm “Chất, lượng, độ, thuộc tính” như triết học. Phân biệt chất khác nhau được tạo nên bởi những thuộc tính khác nhau: ” Chẳng chua cũng thể là chanh, chẳng ngọt cũng thể cam sành chín cây“. Chất khác nhau tạo ra những giá trị khác nhau: ” Trăng mờ còn tỏ hơn sao, dẫu rằng núi nở còn cao hơn đồi“. Không thể lấy lượng thay chất được dù rằng lượng đó gấp bao nhiêu lần: ” Trăm đom đóm không bằng bó đuốc, trăm hòm chỉ chẳng đúc lên chuông“. Chất bao giờ cũng được coi trọng hơn lượng. ” Quý hồ tinh bất quý hồ đa“, ” Văn hay chẳng lọ dài dòng“… và rất nhiều câu diễn tả sự thay đổi về lượng khi “vượt độ” sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất: ” Quá mù ra mưa“, ” Tốt quá hoá lốp“, ” Mèo già hoá cáo“, ” Góp gió thành bão, góp cây nên rừng“… Đặc biệt có câu thể hiện sự chuyển hoá lẫn nhau giữa khái niệmlượng và khái niệm chất: ” Gò với núi cũng kể loài cao, bể với ao cũng kể loài thấp “.

Mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng được tục ngữ nói đến ở nhiều góc độ và mức độ khác nhau, rất thực tế và linh hoạt. Bản chất bao giờ cũng bộc lộ qua hiện tượng: ” Người khôn dồn ra mặt“, ” Khôn ngoan hiện ra nét mặt, què quặt hiện ra chân tay“. Có thể căn cứ vào hiện tượng đề kết luận về thực chất sự vật: ” Nứa trôi sông chẳng giập thì gẫy, gái trồng rẫy chẳng chứng nọ cũng tật kia“. Hiện lượng khác nhau nhưng bản chất chi là một: ” Khác lọ cùng một nước“. Cái bề ngoài thì dễ thấy nhưng cái bên trong thì khó mà thấy: ” Họa hổ hoạ bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm“. Phải cảnh giác với những hiện tượng xuyên tạc bản chất: ” Thủ thỉ nhưng mà quỷ ma“, ” Tẩm ngẩm tầm ngầm mà dẫm chết voi“…

Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả (gọi tắt là quan hệ nhân quả) cũng được thể hiện trong nhiều câu tục ngữ: ” Không có lửa sao có khói“, ” Gieo gió gặt bão“, ” Trèo cao ngã đau“, ” Nguồn đục dòng cũng đục“, ” Thế gian chẳng ít thì nhiều, không dừng ai dễ đặt điều cho ai “…

Mối quan hệ giữa cái riêng và cái chung trong tục ngữ được thể hiện như là sự gắn bó và phân biệt giữa cá thể và và loài trong thế giới sinh vật: ” Thân chim cũng như thân cò“, ” Lòng vả cũng như lòng sung, một trăm con lợn cũng chung một lòng“, ” Sống mỗi người mỗi nết, chết mỗi người mỗi tật “…

Quan hệ mâu thuẫn trong tự nhiên và xã hội được trình bày như là “sự trái ngược” đơn thuần: ” Được mùa cau, đau màu lúa“, ” Được người mua, thua người bán‘, ” Được lòng ta xót xa lòng người“, ” Kẻ ăn không hết, người lần không ra “…

Bên cạnh những tư tưởng duy vật và tư tưởng biện chứng có tính chất trực quan đó, nhân dân lao động ngày xưa, do thế giới quan không thuần nhất, do trình độ nhận thức còn thấp kém và do bị áp bức nặng nề trong xã hội có giai cấp đối kháng nên không tránh khỏi những tư tưởng duy tâm và mê tín dị đoan. Tuy có nghi ngờ, không tin vào các loại “thầy” cụ thể làm nghề mê tín, nhưng họ lại tin vào thần thánh, vào vận hạn, vào tướng mạo và những dấu vết trên cơ thể con người, vào ngày giờ lành dữ, và nhất lả tin vào số mệnh (những câu tục ngữ nói về “số” cũng nhiều hơn về các thứ mê tín khác): ” Đất có thổ công, sông có hà bá,” ” Trời cho hơn lo làm“, ” Một khoáy sống lâu, hai khoáy trọc đầu, ba khoáy chóng chết“, ” Chớ đi ngày bảy, chớ về ngày ba“, ” Từ sinh hữu mệnh, phú quí tại thiên“, ” Trăm đường tránh chẳng khỏi số“, ” Tốt số hơn bố giầu‘, ” Số giàu tay trắng cũng giàu, số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo“…

Những tư tưởng duy tâm, mê tín nói trên không những chi phối nặng nề đời sống của nhân dân lao động nước ta trong các xã hội trước đây, mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến một bộ phận nhân dân trong xã hội ta ngày nay, đặc biệt là đối với lớp người làm nghề buôn bán và tầng lớp thanh niên gặp nhiều khó khăn, trắc trở về tình duyên, về công việc làm ăn… Đó cũng là điều khó tránh khỏi. Chi có sự phát triển của đời sống xã hội và kinh nghiệm thực tế của mỗi người mới có thể dần dần khắc phục và loại trừ những quan niệm sai lầm trong thế giới quan và nhân sinh quan.

Ý nghĩa triết học của kho tàng tục ngữ Việt rất rộng lớn, phong phú, muôn hình, muôn vẻ. Đó là những di sản quý báu “Những viên ngọc quý” của đời sống tinh thần được coi như một trong những điểm tựa về tư tưởng truyền thống của dân tộc mà chúng ta cần và có thể chọn lọc, kế thừa và sử dụng trong cuộc sống mới hiện nay.

Bạn đang xem bài viết Www.honviet.com. Nghĩ Về Vẻ Đẹp Con Rồng Trong Văn Học Dân Gian trên website Boxxyno.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!