Cập nhật thông tin chi tiết về Tục Ngữ, Ca Dao Dân Tộc Thái Và Tục Ngữ, Ca Dao Người Kinh (Cảnh Thụy) mới nhất trên website Boxxyno.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Cộng đồng dân tộc Thái ở Việt Nam có khoảng hơn 1,5 triệu người, cư trú chủ yếu ở các tỉnh thuộc địa bàn Tây Bắc. Theo nhiều nguồn tài liệu nghiên cứu, người Thái xuất hiện ở Tây Bắc cách đây hàng nghìn năm, qua các đợt di cư của tộc người Thái từ Vân Nam (Trung Quốc) xuống và từ Thái Lan sang. Dân tộc Thái có truyền thống văn hóa lâu đời, đạt đến trình độ cao. Ngoài chữ viết, người Thái còn bảo tồn được kho tàng văn hóa, lễ hội, luật tục, tục ngữ, ca dao, dân ca rất phong phú và đặc sắc.
Cũng như kho tàng văn hóa các dân tộc khác, tục ngữ, ca dao của dân tộc Thái là một kho kinh nghiệm về sản xuất, đời sống tinh thần; qua đó, thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan, tư tưởng, tình cảm của con người. So sánh tục ngữ, ca dao của người Thái với người Kinh, chúng ta sẽ tìm thấy ở đó có sự tương đồng thú vị, trên cơ sở đó, có những phân tích, đánh giá và đặt ra những vấn đề cần lý giải.
Trong khuôn khổ giới hạn, bài viết này, xin chỉ trình bày bước đầu so sánh, tìm hiểu những nét tương đồng về nội dung giữa tục ngữ, thành ngữ dân tộc Thái và với thành ngữ, tục ngữ dân tộc Kinh, trong khuôn khổ nguồn tư liệu còn hạn hẹp: “Luật tục Thái ở Việt Nam” của Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng (NXB Văn hóa dân tộc, 2012) và ” Thơ ca nghi lễ dân tộc Thái” (Hội Văn nghệ dân gian- NXB Văn hóa dân tộc, 2012)
Tổ chức xã hội theo truyền thống của người Thái là bản, mường. Bản của người Thái nhỏ nhất vài ba nóc nhà, lớn thì hàng chục, hàng trăm nhà. Trong cộng đồng ấy, con người được gắn kết với nhau bằng tình cảm và những luật tục, nghi lễ. Lễ hội “xên bản, xên mường” của người Thái kết tinh cao giá trị văn hóa, lịch sử và nhân văn. Do vậy, tục ngữ Thái khuyên răn con người ta sống phải biết yêu quý bản mường của mình, gắn kết với nơi ăn, trốn ở nơi mình sinh sống:
– Rời nơi ăn chốn ở mãi mãi rồi cũng thành ma
Tương tự như vậy, người Kinh có câu:
Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn
– Sểnh nhà ra thất nghiệp
Tinh thần đoàn kết cộng đồng, muôn người như một, tạo thành sức mạnh được người Thái ví von bằng những hình ảnh rất cụ thể và gần gũi:
– Chuối đến lúc trĩu buồng phải có cây chạc chống
– Khỏe một mình làm không được
Khôn một mình làm không xong
Tương tự như vậy, tục ngữ người Kinh có những câu:
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Người trong một nước phải thương nhau cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.
Trong phạm vi rộng, tục ngữ Thái khuyên con người biết đoàn kết cộng đồng trong bản, trong mường; ở phạm vi hẹp, tục ngữ Thái khuyên con người đoàn kết anh em trong một nhà:
Không nặng tiếng trái lời
Để nhắc nhở anh chị em trong một nhà đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ nhau, người Kinh cũng có những câu:
– Anh em như thể chân tay
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần
– Khôn ngoan đá đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
Điều thú vị là trong kho tàng ca dao, tục ngữ của người Thái và người Kinh, số lượng ca dao, tục ngữ nói về đoàn kết gia đình, đoàn kết cộng đồng khá phong phú. Qua đó cho thấy, tinh thần đoàn kết được xây dựng từ gia đình- tế bào của xã hội, được người Thái và người Kinh rất coi trọng. Nó là bài học của con người qua đấu tranh với thiên nhiên để sinh tồn và chống kẻ thù để bảo vệ cuộc sống bình yên.
Vượt lên những kinh nghiệm thông thường được con người đúc rút qua thực tiễn, thể hiện nhân sinh quan, mối quan hệ ứng xử giữa người với người, tục ngữ Thái còn có những câu đậm tính triết lý, khái quát những quy luật của tự nhiên, xã hội, thể hiện một trình độ tư duy cao, có tính biện chứng. Đọc những câu sau, ta thấy cái nhìn của người Thái về thế giới không phải là bất biến, trái lại, rất động:
– Mưa nhiều không cần nắng, cũng nắng
Nắng nhiều không cần mưa, cũng mưa
– Không ai gặp xấu cả năm
– Người ta có gặp vận rủi
Qua vận rủi rồi cũng phải tới vận may
Tuy thuộc hai nền văn hóa khác nhau, nhưng người Thái với người kinh lại gần nhau trong quan niệm về thế giới. Cả người Thái và người Kinh đều nhìn thế giới với con mắt “vạn vật hữu linh”. Tục ngữ Thái có câu :
Một miếng đất bằng cái quạt cũng có chủ
Cũng giống như câu tục ngữ của người kinh :
– Đất có thổ công, sông có hà bá
Nhìn sự thay đổi của tạo hóa theo quy luật, người Thái cũng có những câu thật triết lý :
Cũng như người Kinh quan niệm :
Quan niệm của người Thái về khả năng của con người trong nhận thức thế giới khách quan cũng rất gần với triết học hiện đại vì nó thừa nhận thế giới là vô cùng tận, nhận thức của con người về thế giới luôn hữu hạn :
Những câu tục ngữ trên rất gần với quan niệm của Kinh qua các câu tục ngữ :
– Không ai nắm tay được đến tối, gối tay được đến sáng
Nhìn cuộc sống theo quy luật nhân quả, người Thái có cái nhìn rất hướng thiện :
Làm ác thể nào cũng gặp ác
Người không đáp thì ma cũng đáp
Quan niệm đó trùng với quan niệm của người Kinh, tuy người Thái ít chịu ảnh hưởng bởi quan niệm của Phật giáo:
– Ở hiền gặp lành, ở ác gặp ác
Khi phát triển về trình độ tư duy, con người ta nhận thức được đúng với sai, thật với giả, mà cao hơn là phân biệt được sự khác nhau giữa hiện tượng và bản chất, hình thức với nội dung. Tục ngữ Thái có nhiều câu chỉ rõ mối quan hệ này:
– Người đi kẻ lại phải xem biết ai tốt xấu
Mặc rách rưới, người có lòng nhân nghĩa cũng nên
Người mặc đẹp, ăn ngon, lòng dối trá cũng có
Người Kinh cũng có những câu tương tự:
– Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
– Mật ngọt thì ruồi chết tươi
Những nơi cay đắng là nơi thật thà
Ruột trong thì trắng vỏ ngoài lại đen
Qua những câu tục ngữ đúc rút kinh nghiệm về nhìn nhận, đánh giá con người, có thể thấy người Thái cũng như người Kinh, đều nhìn nhận con người về thể chất và nhân cách như là sản phẩm của tự nhiên và môi trường xã hội. Cho nên, trong việc chọn vợ gả chồng người Thái khuyên răn người ta phải chọn dòng giống, nhìn vào gia phong:
Kén vợ, kén chồng không chỉ đi tìm gương mặt bề ngoài
Chọn con dao chứ không phải chọn vỏ dao
Phải biết thật kỹ đáy lòng mà nắm bắt được ngay, gian
Lấy vợ kén tông, lấy chồng kén giống
Cũng giống như quan niệm của người Kinh:
– Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh
– Trứng rồng lại nở ra rồng
Liu điu lại nở ra dòng liu điu
– Giỏ nhà ai quai nhà nấy
Mặc dù đặc điểm và trình độ phát triển xã hội ở hai cộng đồng người Thái và Kinh không giống nhau, nhưng tổng kết, đúc rút về thói đời, người Thái có câu :
Lúc làm nên thì luôn thấy chín bà vợ
Khi không làm nên thì chỉ có một em vợ cũng chẳng thấy
– Anh em rượu đắng khác hẳn với anh em cùng chịu mùi tanh hôi
(“Anh em rượu đắng” ở đây chỉ những người dưng, chỉ anh anh em em bên chiếu rượu (với người Thái, rượu đắng là rượu ngon). Còn “anh em cùng chịu mùi tanh hôi” là anh em ruột rà, máu mủ. Có thể ngày thường anh em ít gặp nhau, nhưng khi cha mẹ mất (bốc mùi hôi tanh) thì cùng nhau gánh chịu:
Tương tự như vậy, người Kinh cũng có những câu:
– Lúc khó thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em
– Bần cư thành thị vô nhân vấn
Phú tại sơn lâm hữu khách tầm
(nghèo ở thành thị không có người hỏi, giầu thì ở rừng núi có người tìm đến)
Trong quan hệ ứng xử, người Thái cũng có cái nhìn tinh tế và sâu sắc:
– Uống rượu đừng nói chuyện ruộng
Ngủ với vợ (chồng) không nói chuyện tình cũ
Để con người sống có nghĩa, có tình, sống hướng thiện, trong kho tàng tục ngữ của người Thái cũng như người Kinh, có nhiều câu đúc rút những kinh nghiệm giáo dục con cháu. Trách nhiệm giáo dục con cháu thuộc về ông bà, cha mẹ. Nếu như người Kinh quan niệm “con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”, “con dại, cái mang” thì người Thái cũng quan niệm “Con cháu gây tội ác, tất cả bậc cha mẹ đều phải lo”. Việc đề cao giáo dục trong gia đình là bài học quý về giáo dục mà đến nay vẫn còn mang tính thời sự. Người Thái có những câu răn dạy:
– Người già hãy bảo con cháu
Để quá thì chúng lớn khó bảo
Lớn lên tưởng mình cao bằng núi
Những đỉnh núi cao không vượt gối của người
Và người Kinh cũng có những câu tương tự:
– Dạy con từ thưở còn thơ
Trong nền văn minh nông nghiệp, người Thái cũng như người Kinh rất trọng kinh nghiệm. Tục ngữ Thái có câu:
Đi nhiều thấy nhiều điều khôn ngoan hơn mình
Ghi vào lòng để hiểu biết và khôn
Và tương tự, người Kinh cũng quan niệm:
– Đi một ngày đàng, học một sàng khôn
– Đi cho biết đó biết đây
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn
Vì đề cao kinh nghiệm, nên người Thái cũng như người Kinh rất tôn trọng người già. Gìa làng, trưởng bản luôn là người có uy tín, được cộng đồng tôn sùng. Tục ngữ Thái có câu:
– Cây nhọn không bằng sắt cùn
Trẻ hiểu biết không bằng già quên
Cũng giống như quan niệm của người Kinh:
– Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già
Có thể nói, người Thái có cả một kho tàng kinh nghiệm rất phong phú, đúc rút từ cuộc sống xã hội, cho thấy cộng đồng người Thái có những mối quan hệ xã hội khá phong phú ở trình độ xã hội đã được tổ chức cao.
2. Những chuẩn mực đạo đức
Tục ngữ Thái có rất nhiều câu răn dạy người ta sống theo đạo làm người. Thông qua đó, chúng ta thấy quan niệm nhân sinh của người Thái.
Các nhà dân tộc học gọi người Thái là người của ” nền văn minh thung lũng “. Tục ngữ Thái có câu : Tsả kin tói phạy, Tay kin tói nặm (Xá ăn theo lửa , Thái ăn theo nước). Vùng đất có sông, suối là nơi người Thái chọn để cư trú. Do vậy, người Thái có tập quán canh tác từ rất sớm : trồng lúa nước ở nơi thung lũng lòng chảo, nơi gần nguồn nước và làm nương rẫy trên sườn núi, đánh bắt cá dưới sông suối, dùng thuyền bè để đi lại, lợi dụng sức nước để sản xuất. Người Thái sớm biết dùng trâu kéo cày, chăn nuôi nhiều gia súc. Người đàn ông Thái nếu không biết phát nương, săn thú, đánh bắt cá sẽ bị chê cười ; người phụ nữ Thái phải biết chăn tằm, ươm tơ, dệt vải, thêu thùa… Bởi thế, trong những chuẩn mực đạo đức, người Thái đặc biệt coi trọng sự chăm chỉ, hay lam hay làm và phê phán thói lười biếng. Tục ngữ Thái có rất nhiều câu khuyên con người phải biết chăm làm, không ngại việc :
– Đừng chây lười ngại việc
Đừng tiếc công tiếc sức, gắng lòng làm ăn
Việc làm được, lớn như đồi núi chưa đủ
Đổ mồ hôi, cạn kiệt sức mới vừa tầm
Bởi vì có lao động mới có cái ăn
– Muốn để bụng đói hãy nằm im
Muốn ăn ở nghèo khó thì chỉ nói, không làm
Muốn thành lớn hãy bắt tay từ việc nhỏ
– Lười biếng bụng trống rỗng
– Người giàu có, nhờ làm ăn liên tục
Người nghèo khó bởi làm ăn dông dài
Tất cả mọi của cải trên đời đều từ bàn tay lao động của con người. Không có gì tự dưng sẵn có:
Trong đó có ít người số may mà được
Nhìn chung mọi người phải nghĩ, phải lo mới có được
Nếu không nghĩ, không lo để tìm kiếm thì kho bạc, kho vàng của nhà trời cũng không tự đến
Cố cùng bạn làm lụng, nó khắc tới mình
Lao động còn khiến con người thêm hiểu biết, thông minh, tài giỏi. Quan niệm đó rất duy vật và có cơ sở khoa học:
– Nhẫn được thành người khôn
Chăm được thành người tài
Tục ngữ người Kinh cũng khuyên con người chăm chỉ làm ăn:
Không dưng ai dễ mang phần đến cho
– Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ
Người Thái cho rằng nếu không lao động mà chỉ hưởng thụ thì của cải dẫu có bao nhiêu cũng hết:
– Chẳng làm gì, gác chân ăn, mỏ vàng bằng trái núi cũng hết
Người Kinh đúc kết điều này trong một câu tương tự:
Người Thái khuyên con cháu phải biết tự lực, chỉ có của cải do chính mình làm ra mới đảm bảo cuộc sống được ổn định, bền vững; đừng ỷ nại người trên, trông chờ vào của cải ông bà, cha mẹ để lại:
– Của cải từ tay chân làm ra là nguồn tuôn chảy
Của cải từ cha mẹ để lại là nước lũ cuốn đi
Còn người Kinh dặn dò con cháu:
– Của làm ra là của trong nhà
Của ông bà là của ngoài sân
Của phù vân có chân nó chạy
Do nền sản xuất nông nghiệp còn ở trình độ thấp, thiên tai bất thường, con người phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, nên người Thái cũng như người Kinh, đều nhắn nhủ nhau “tích cốc phòng cơ”, đề phòng rủi ro, thiên tai, và phải tiết kiệm. Tục ngữ Thái có câu:
– Gom của phòng mùa thiếu
– Vừa ăn lại vừa để, tốt lắm
Vừa kiệm lại vừa giành, tốt quá
– Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè hà tiện
Khuyên con người phải biết chăm chỉ lao động, tiết kiệm, tục ngữ Thái cũng dạy người ta không tham lam, trộm cắp:
– Đừng trộm hái rau quả của vườn người
Cũng như tục ngữ của người Kinh:
Người Kinh cũng có câu: ” Thật thà là cha quỷ quái ” để đề cao những lời nói thật, lên án những kẻ hay dối trá.
Còn tục ngữ người Kinh có câu: ” Ăn có nhai, nói có nghĩ ”
3. Về kinh nghiệm sản xuất
Trong lao động, sản xuất cũng như đời sống, thiên tai luôn là nỗi ám ảnh với con người. Người Kinh có câu: “Thủy, hỏa, đạo, tặc” để xếp hạng những yếu tố gây nguy hiểm cho cuộc sống con người. Trong đó, “thủy” đứng ở vị trí đầu tiên. Chắc hẳn những trận lụt kinh hoàng đã thành ám ảnh không phai đối với người Kinh xa xưa. Sau “thủy” là “hỏa”. Nạn lửa chỉ sau nạn cháy, còn nguy hiểm hơn cả trộm cướp và giặc giã. Còn với người Thái thì:
– Không nạn nào hơn nạn lửa, nạn nước
Dùng nước phải biết tránh nguồn nước
Dùng lửa hãy giữ gìn nạn cháy
– Bừa bãi lửa thường sinh nạn cháy
Kinh nghiệm sản xuất của người Kinh thiên về cấy trồng, mùa vụ còn kinh nghiệm sản xuất của người Thái ngoài việc trồng trọt, chăn nuôi, còn có săn bắn, hái lượm, cách thức đi rừng, kinh nghiệm khai thác lâm sản…mà ở đề tài này, ca dao tục ngữ của người Kinh không nhiều.
Đi sâu tìm hiểu ca dao, tục ngữ của người Thái với người Kinh, chúng ta thấy có nhiều nét tương đồng. Sự tương đồng được thể hiện ở nhiều lĩnh vực: từ sản xuất đến đời sống, từ tư tưởng đến tình cảm, thế giới quan đến quan niệm sống, quan niệm về giá trị đạo đức, nhân văn…
Những nét tương đồng đó là kết quả của nhiều nguyên nhân: do sự tương đồng về tự nhiên, điều kiện sống, trình độ canh tác, hoặc do sự tương đồng trong cách cảm, cách nghĩ và ảnh lẫn nhau trong giao lưu văn hóa…Tuy nhiên, những sự tương đồng này chỉ được đề cập ở phương diện nội dung, tư tưởng. Đi sâu vào tìm hiểu, trong sự tương đồng vẫn có sự khác biệt, kể cả về nội dung cũng như hình thức nghệ thuật, mà trong bài viết này chưa có dịp đề cập đến.
Những nét tương đồng đi cùng với sự khác biết, vừa thể hiện nét chung về văn hóa của các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam vừa phản ánh bản sắc riêng trong văn hóa của mỗi dân tộc. Bởi thế mà nền văn hóa Việt Nam có sự thống nhất trong đa dạng, mà chúng ta cần giữ gìn và phát huy.
Tài liệu tham khảo
1. Hội Văn nghệ dân gian (2012), Thơ ca nghi lễ dân tộc Thái, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
2. Ngô Đức Thịnh và Cầm Trọng (2012), Luật tục Thái ở Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.
Người “Gom Nhặt” Ca Dao, Tục Ngữ Dân Tộc Thái
Hàng chục năm qua, ông bỏ công sức sưu tầm, tìm hiểu loại hình văn hóa và tri thức dân gian này để vận dụng vào đời sống văn hóa thực tiễn. Đến nay, ông đã sưu tầm được hơn 2 nghìn câu ca dao, tục ngữ, từng bước đưa di sản này đến gần với đời sống văn hóa tinh thần của người dân trong thời hiện tại.
Sinh ra trong một gia đình giàu truyền thống văn hóa, ông Cừ thừa hưởng tình yêu ca dao, tục ngữ của dân tộc Thái từ người cha yêu quý của mình.
Ông Phạm Xuân Cừ giành cả cuộc đời miệt mài sưu tầm ca dao tục ngữ dân tộc Thái.Khi trưởng thành, bằng tình yêu, tâm huyết và mong muốn tìm lại kho tàng ca dao tục ngữ dân tộc Thái, ông Cừ đã đi đến tất cả các thôn bản của người Thái sinh sống ở xứ Thanh để sưu tầm, tìm hiểu. Tại đây, ông có cơ hội được gặp gỡ nhiều cụ cao niên để khai thác, cóp nhặt tất cả các câu ca dao, tục ngữ của dân tộc Thái, tập hợp thành những tệp tư liệu riêng. Được mỗi người chia sẻ một, hai câu theo trí nhớ của mình, qua nhiều năm “gom nhặt”, ông Phạm Xuân Cừ đã sưu tầm được hơn 2.500 câu ca dao tục ngữ.
Ông còn phối hợp cùng các hội viên trong Hội Dân tộc học và Nhân học tỉnh Thanh Hóa và thầy cô giáo, sinh viên Trường Đại học Hồng Đức sưu tầm, phiên dịch gần 10 nghìn câu ca dao, tục ngữ dân tộc Thái, hiện đã được in thành sách đưa vào giảng dạy ngoại khóa cho sinh viên dân tộc Thái.
Ông Cừ chia sẻ, cũng như kho tàng văn hóa các dân tộc khác, tục ngữ, ca dao của dân tộc Thái là một kho tàng tri thức, kinh nghiệm về sản xuất, đời sống tinh thần, qua đó thể hiện thế giới quan, nhân sinh quan, tư tưởng, tình cảm của con người.
Tục ngữ dân tộc Thái ca ngợi, khích lệ người siêng năng chăm làm và làm ăn có tính toán biết gắn cuộc sống của người lao động đối với vai trò, vị trí của mình trong xã hội, được xã hội quý mến, trân trọng. Ngay từ ngày mới trưởng thành con trai Thái phải học những việc cần thiết của người đàn ông như, đan lát, tập chặt dao, rìu, tập cầm cày bừa…, con gái Thái phải học dệt thổ cẩm, thêu thùa, may vá, các công việc nội trợ…
Ví dụ như câu ca dao tục ngữ người Thái về giáo dục cách sống, cách ứng xử như: “Nhiều mây trời mới đổ mưa/ Nhiều người mới nên làng nên bản”, hay những câu tục ngữ Thái ca ngợi, khích lệ người siêng năng chăm làm, được xã hội quý mến, trân trọng “Của xin không đủ ngày/ Của mua không đủ năm/ Chăm làm có ăn, siêng nằm chết đói”.
Ấn tượng hơn là, vào mỗi dịp họp dân, ông Cừ tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến bà con không chỉ bằng văn bản khô cứng mà vận dụng ca dao, tục ngữ để ví von cho bà con dễ hiểu. Ông Cừ ví dụ “Giữ lấy rừng về sau phát triển/ Để cho muôn mó nước, sông suối tuôn trào/ Ai nhớ được câu nói ấy thì mới nên người”.
Theo ông Cừ, những văn bản, chính sách tiếp cận đến bà con không phải ai đọc cũng hiểu, nên mình hiểu được phải giải nghĩa cho bà con, đọc ca dao tục ngữ để giải thích là hiệu quả nhất, vừa cuốn hút, vừa sâu sắc.
Không chỉ sưu tầm ca dao tục ngữ Thái, ông Phạm Xuân Cừ còn tự mình sáng tác. Ông chia sẻ ca dao, tục ngữ vốn là của dân gian, nhưng theo thời gian, kho tàng ca dao dần bị mai một nên cũng cần có người sáng tác để bồi đắp cho kho tàng ca dao tục ngữ ấy. Mong muốn của ông, không chỉ những người con dân tộc Thái hiểu, mà tất cả các dân tộc khác cũng có thể học tập, vận dụng vào đời sống.
HỒNG MINH
Ca Dao Tục Ngữ Về Danh Lam Thắng Cảnh
Ca dao tục ngữ về danh lam thắng cảnh
Bắc Cạn có suối đãi vàng Có hồ Ba Bể có nàng áo xanh
Cổ Đô thực chốn giang hồ Ai đi đến đất Cổ Đô cũng nhìn Trên bờ gió thổi rung rinh Dưới sông sóng đánh rập rình thêm vui Thuyền bè lên ngược xuống xuôi Tiện đường buôn bán, tiện nơi đi về.
Cổ Loa là đất Đế Kinh Trông ra lại thấy tòa thành Tiên xây.
Chẳng vui cũng thể hội Thầy Chẳng đẹp cũng thể Hồ Tây xứ Đoài.
Chuồn chuồn bay thấp bay cao Bay ra ngoài Huế, bay vào Phú Yên.
………………..
(1) Núi Vọng Phu: Núi Vọng Phu ở trên núi Mô-o, gần bãi Khách Thử, thuộc huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.
(2) Đầm Thị Nại: thuộc huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định.
(3) Cù lao Xanh: một hòn đảo thuộc Bình Định, gần cửa biển Quy Nhơn.
(4)Vùng Bưởi, kẻ Bưởi: Chỉ chung mấy xã thuộc tổng Trung, huyện Vĩnh Thuận, trước thời kỳ thuộc Pháp gồm các làng Hồ Khẩu, Yên Thái, Trích Sài, Bái Ân cũ. Bưởi xưa có hai nghề nổi tiếng là nghề làm giấy (Hồ Khẩu, Yên Thái) và nghề dệt lĩnh (Bái Ân, Trích Sài).
(5) Seo can: “Seo” giấy tức là đem nhúng vào tàu seo – một thùng hay bể nhỏ đựng nước có bột dó và nhựa gỗ – một cái khuôn có liềm giấy ở trong rồi lắc chao khuôn đó thành hình tờ giấy. “Can” là can giấy: giấy bóc ở khuôn ra đem can tức là đem vào lò (gọi là bồi) phết từng tờ lên tường.
(6) Cát Chính: ở xã Quảng Cát, huyện Quảng Xương, Thanh Hóa.
(7) Cổ Đô: tức xã Thiệu Đô, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
(8) Thượng Kinh: Có sách viết, đất kinh đô ở trên hết mọi nơi khác trong nước, đây chỉ kinh đô Thăng Long.
(9) Hội Thầy: tức hội chùa Thầy. Chùa ở chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Tây, là nơi Từ Đạo Hạnh tu hành. Trên núi có hang Thánh Hóa, tục truyền là chỗ Từ Đạo Hạnh hóa thân. Chùa Thầy còn có tên Thiên Phúc Tự, là công trình kiến trúc và điêu khắc có giá trị thế kỷ XVII. Hội chùa Thầy tổ chức hằng năm vào ngày mồng 7 tháng 3 âm lịch.
Tục Ngữ, Ca Dao, Dân Ca Việt Nam Ebook Pdf
Sách ebook Tục Ngữ, Ca Dao, Dân Ca Việt Nam PDF/EPUB/PRC/AZW/MOBI miễn phí về máy tính – điện thoại – máy đọc sách hoặc bạn có thể đọc trực tiếp trên web. Sách Tục Ngữ, Ca Dao, Dân Ca Việt Nam thuộc thể loại Tục Ngữ, Ca Dao, Dân Ca Việt Nam (Bìa Mềm), được viết bởi tác giả: Vũ Ngọc Phan.
ĐỌC SÁCH
1. NHẬN XÉT
Chưa có nhận xét
2. GIỚI THIỆU SÁCH
Tục Ngữ, Ca Dao, Dân Ca Việt Nam (Bìa Mềm)
Tác phẩm của nhà nghiên cứu văn học Vũ Ngọc Phan được trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt đầu tiên (năm1996, lĩnh vực văn nghệ dân gian).
Cuốn sách được tác giả dày công sưu tầm, khảo cứu trong suốt những năm tham gia kháng chiến chống Pháp, đặc biệt từ khi chuyển sang làm công tác nghiên cứu văn – sử – địa và hoàn thành vào năm 1956. Vũ Ngọc Phan đã có phần nghiên cứu tâm huyết về đặc điểm, giá trị đặc sắc của tục ngữ, ca dao, dân ca vô cùng đa dạng và phong phú của dân tộc Việt Nam ta (trong đó có cả của một số dân tộc thiểu số) bên cạnh phần tuyển chọn công phu.
Đặc biệt, cuốn sách còn có phần biên khảo rất sớm (với tầm nhìn xa trông rộng) và rất giá trị về dân ca, bao gồm các loại hình như: hát trống quân, hát xẩm, hát quan họ Bắc Ninh, hát ghẹo Phú Thọ, hát ví, hát giặm Nghệ Tĩnh, hò Huế, dân ca miền Nam Trung Bộ, dân ca Nam Bộ…
3. THÔNG TIN SÁCH
Công ty phát hành Nhà sách Minh Thắng Tác giả Vũ Ngọc Phan Ngày xuất bản 01-2017 Kích thước 14,5 x 20,5 cm Loại bìa Bìa mềm Số trang 664 SKU 3101414090001 Nhà xuất bản Nhà Xuất Bản Văn Học
Bạn đang xem bài viết Tục Ngữ, Ca Dao Dân Tộc Thái Và Tục Ngữ, Ca Dao Người Kinh (Cảnh Thụy) trên website Boxxyno.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!