Top 3 # Tâm Điểm Lời Phật Dạy Pdf Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 3/2023 # Top Trend | Boxxyno.com

Lời Phật Dạy Về Chữ Tâm

(Lichngaytot.com) Trong cuộc sống có rất nhiều điều quý giá nhưng quan trọng nhất là tâm. Tâm khởi phát cho mọi khổ đau và hạnh phúc, cùng lắng nghe lời Phật dạy về chữ tâm để có thêm những suy nghĩ đúng đắn cho con đường mình đi.

Nhiều người thích tiền tài, danh vọng, vật chất, điều này không sai, đó là nhu cầu thiết thực và đáng trân trọng. Nếu làm theo tâm mình thì những thứ kia sẽ giúp cuộc sống trở nên xa hoa, tốt đẹp, thoải mái hơn. Nhưng ngược lại, làm trái tâm thì có bao nhiêu cũng chỉ khiến cuộc sống bế tắc, bất hạnh hơn mà thôi.

Lời Phật dạy về chữ tâm được ghi trong kinh sách sẽ bày tỏ đôi điều về vấn đề tưởng đơn giản mà lại rất rộng lớn này.

1. Nhất thiết duy tâm tạo

Trong kinh Hoa Nghiêm có viết: nhất thiết duy tâm tạo, tức là mọi việc đều do tâm sinh ra. Tâm là thứ điều khiển và nảy sinh ra mọi lẽ thiện ác, mọi công đức nghiệp báo của một đời người, quyết định con người ấy sẽ sống đời lương thiện hay đời xấu xa, sẽ trở nên hạnh phúc hay đau khổ.

Tâm tốt tạo ra thiện hạnh, nghiệp lành, hướng con người tới những việc giản đơn, tốt đẹp. Tâm xấu thúc đẩy tham, sân, si, tất cả những tội lỗi sai lầm mà chúng ta gây ra đều xuất phát từ tâm không trong sáng. Từ trong tâm sẽ dẫn dắt hành động, từ hành động mà tạo ra nhân quả.

Lời Phật dạy về chứ tâm nhấn mạnh tới sự tự chủ của mỗi người, không phải hoàn cảnh, không phải xã hội, không phải cuộc đời đẩy chúng ta tới chân tường, khiến chúng ta rơi vào vòng xoáy oan nghiệt mà chính tâm mới quyết định tất cả. Thế nên trong Phật giáo mới có những bài kinh sám hối.

Sám hối là nhìn lại tâm của mình, chủ động thừa nhận những sai lầm khởi phát từ trong tâm và cố gắng thay đổi, cải biến để lương tâm trong sáng, xóa sạch nhưng mờ tục trong tâm. Tâm sinh tính và , tâm tốt thì mọi thứ đều vẹn tròn..

2. Tùy tâm biểu hiện

Trong kinh Thủ Lăng Nghiêm có viết: tùy tâm biểu hiện, tức là mọi sự thiện ác lành dữ đều do tâm biểu hiện ra. Người hành động không tốt, có tính bạo lực, thù địch, dối trá tức là tâm không sáng; người dịu dàng, nho nhã, thanh lịch, thật thà là biểu hiện của tấm lòng tốt đẹp.

Không có chuyện tâm tốt mà biểu hiện ra xấu cũng không có trường hợp tâm xấu mà hành động lại tốt đẹp trừ khi là giả tạo mà cái gì giả thì sớm muộn cũng bị vạch trần. Tâm và biểu hiện rất nhất quán, có sự tương đồng, tương thông. Vì thế thông qua hành động của một người có thể thấy tâm tính của người đó.

3. Tam giới tận tâm, tức thị niết bàn

Lời Phật dạy về chữ tâm ghi trong kinh A Hàm có ý nghĩa là chỉ khi nào tâm sạch ba cõi, không còn tham, sân, si thì mới thấy được Niết Bàn – cõi cực lạc tiên cảnh.

Lòng tham nổi lên, con người sẽ chìm đắm trong dục giới, lúc nào cũng chỉ muốn thỏa mãn lòng tham, sẵn sàng làm tất cả những chuyện xấu xa đồi bại nhất để đạt được mục đích. Mà lòng tham thì vô đáy, không có điểm dừng, đạt được cái này rồi lại muốn cái kia nên con người lúc nào cũng vất vả, bôn ba vì những thứ chưa chắc đã thực sự có ý nghĩa. Phật dạy về chữ tham, lòng tham và nỗi khổ vì tham nhất định phải nhớ.

Khi lòng sân hận nổi lên, con người sẽ chìm trong sắc giới, sinh sự bất mãn, tự mình làm khổ mình, dù không tham nhưng có sân thì không thể hết khổ, không thể hết buồn, dễ đố kị, ghen tị mà làm việc ác.

Khi lòng si nổi lên, ngu dốt u mê tăm tối, không thấy đúng sai, không màng phải trái, không có tâm dẫn đường, dễ mê lầm.

4. Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai

Một khi tâm niệm tức giận, sân hận khởi lên mà chúng ta không tự kiềm chế, không tự khắc phục, thì trăm ngàn vạn chuyện khó khăn, đau khổ, chướng ngại tiếp nối theo sau đó. Tâm dẫn đường hành động, tâm sinh tính cách, tâm làm nên tướng người nên tâm xấu ắt hẳn bao chuyện thiếu tử tế sẽ diễn ra.

Lời Phật dạy về chữ tâm thực ra chung quy lại chỉ có một trọng điểm: chữ tâm tạo nên cuộc đời. Sống ở đời có thể không có tiền, không có tài nhưng nhất định phải có tâm. Người không tiền sống nghèo sống khổ, người không tài sống vô dụng và nhỏ bé nhưng người không tâm thì không có cuộc sống.

Lời Phật Dạy Tu Tâm Dưỡng Thân

Tu tâm tất nhiên trước tiên phải tu đức, dưỡng thân trước tiên phải chế ngự được giận dữ. Học một điều này thôi có thể sinh trăm phúc, nghênh vạn lành.

Tu tâm tất nhiên trước tiên phải tu đức, dưỡng thân trước tiên phải chế ngự được giận dữ.

Sống ở trên đời, biết khiêm cung nhường nhịn, lễ độ thì mới có khí chất.

Có người nói, hỉ nộ ái ố là việc thường tình của con người, hàng ngày xảy đến biết bao nhiêu mâu thuẫn, có ai là không tự nhiên mà bộc phát sinh ra nóng giận cho được.

Vậy mới cần đến tu tâm, mới cần đến học chữ nhẫn.

Sinh khí tức giận bất luận theo dưỡng sinh hay dưỡng tâm đều trăm hại không có một lợi.

Người xưa có câu: “Nhẫn một chút gió êm sóng lặng, lùi một bước trời cao biển rộng”.

Một người nếu đạt tới trình độ khoan hòa rộng lượng, nhẫn nhục không biện, tự nhiên có thể rời xa thị phi, vô ưu vô lo, tiêu diêu tự tại trong nhân sinh.

Theo sách “Luận ngữ” có nói: “Nhỏ không đành lòng, việc lớn sẽ loạn”.

Dân gian thường nhắc nhở: “Nhẫn có thể sinh trăm phúc, cũng sinh trăm điều tốt lành”.

Trong cuộc đời này, việc khó khăn nhiều vô kể, việc đáng giận cũng là vô biên, không học được nhẫn thì ý phiền tâm loạn.

Khi tức giận thì người khó chịu đầu tiên chính là bản thân, không phải đối phương.

Thêm vào đó, tức giận là nguồn cơn của bệnh tật, giận do khí mà sinh ra, tức giận bất bình, lửa giận bừng bừng phấn chấn sẽ dẫn tới khí huyết khô cạn, hỏa khí vượng, thương can hại thận.

Bởi thế nên mới có câu: một chén cơm ăn không no bụng, một hơi khí giận có thể khiến người xanh cỏ.

Tức giận sinh bệnh, chưa hại được người đã thiệt đến thân.

Nhân sinh không tránh khỏi phiền, nhưng cố gắng tránh được bao nhiêu thì tránh bấy nhiêu, nhẫn được bao nhiêu thì nhẫn bấy nhiêu.

Nhẫn không phải là yếu hèn, trốn tránh, nhẫn là biết lấy lòng quân tử đối đãi kẻ tiểu nhân, biết phải trái đúng sai, biết tiến biết lui, không để mình lâm vào cảnh xáo xào, cự cãi, tranh giành vì chuyện không đáng.

Cảnh giới cao nhất của đời sống tinh thần chính là học được chữ nhẫn, biến binh đao thành hòa bình, biến mâu thuẫn thành hòa hợp. Đó mới đích thực là lối hành xử, nguyên tắc đạo lý đúng mực.

Trong cuộc sống thường ngày, vui vẻ an lạc tinh thần thoải mái là một mong ước lớn nhất của con người.

Lời Phật Dạy Về Bệnh Tật Của Thân Và Tâm

1. Quan điểm của đạo Phật về sức khỏe và nghiệp

Với cách nhìn của Phật giáo thì bệnh tật chính là biểu hiện của sự mất hòa hợp trong toàn bộ sự sống tổng thể ở con người. Qua những dấu hiệu của cơ thể, bệnh tật đã giúp chúng ta biết chú ý đến sự mất hòa hợp này. Vì thế điều trị trong Phật giáo không chỉ là chữa trị các triệu chứng có thể cân đo đong đếm mà chú trọng nhiều hơn đến sự nỗ lực trong việc kết hợp giữa thân và tâm để vượt qua bệnh tật.

Đạo Phật khuyên rằng, với mục đích thực tế, chúng ta nên xem tất cả các căn bệnh đều có các nguyên nhân từ trong thân thể. Và ngay cả khi bệnh do nghiệp mà ra thù bệnh đó cũng cần được chữa trị. Không có điều kiện nào là cố định vĩnh viễn. Và vì mối liên hệ nhân quả giữa việc đã làm với hậu quả tương ứng có tính điều kiện hơn là ấn định, nên hễ còn sống là còn có khả năng chữa trị. Sự chữa trị này không can thiệp được vào quá trình hoạt động của nghiệp cá nhân, nhưng có thể làm giảm đi ảnh hưởng của nó. Phật giáo nhắc nhở những người mắc những chứng bệnh không thể chữa trị được là hãy kiên nhẫn thực hiện các việc thiện để làm vơi nhẹ ảnh hưởng của nghiệp xấu vốn đã tạo từ trong quá khứ. Việc tự mình cố gắng duy trì sức khỏe hoặc phục hồi sức khoẻ đã là nghiệp tốt rồi.

2. Lời Phật dạy về bệnh tật: Bệnh về thân và tâm

Theo quan điểm Phật giáo thì do nghiệp trong các kiếp sống quá khứ nên thân thể của mỗi người mỗi khác, cả về biểu hiện bề ngoài và cấu trúc cơ thể. Mọi người cần quan tâm đúng mức đến thân thể, như không hủy hoại thân thể bằng thức ăn độc hại, uống rượu, hút thuốc hay có lúc quá sa đà vào ăn uống hoặc có khi nhịn đói đến rã ruột.

Một thân thể khỏe mạnh được thiết lập trên sự vận hành bình thường của cơ thể và sự hòa hợp trong mối quan hệ hữu cơ giữa các cơ quan bên trong. Khi một trong những cơ quan của cơ thể không vận hành hay suy nhược thì bệnh tật sẽ phát sinh. Chữa bệnh là giúp toàn bộ cơ thể phục hồi lại trạng thái cân bằng chứ không phải chỉ phần bị tổn thương đang bệnh và gây nên đau đớn kia trở lại trạng thái tốt nhất có thể. Vì mỗi một cơ quan trong cơ thể có quan hệ gắn bó khắng khít với các cơ quan khác nên để có sức khỏe tốt thì toàn bộ cơ thể cần phải được duy trì trong tình trạng tốt.

Cơ thể con người cũng giống như tất cả các hiện tượng khác, luôn trong trạng thái thay đổi, suy thoái và hư hoại nên sức khỏe của thân cũng không thể duy trì mãi mãi. Một cơ thể hoàn toàn khỏe mạnh và lúc nào cũng không bệnh tật là điều không thể xảy ra. Cơ thể sống con người dễ dàng sinh bệnh trong bất cứ giai đoạn nào của cuộc đời. Bệnh là một dấu hiệu nhắc mọi người ý thức hơn về sự mong manh của kiếp người. Điều này ngầm cho thấy hoàn toàn khỏe mạnh là điều không thể có được. Từ đó suy ra, sự bình an của con người không có nghĩa là phải vắng mặt tất cả khổ và đau trong cuộc sống, mà bình an nằm ở chỗ biết cách thỏa hiệp với đau và khổ, làm thế nào để sử dụng nó như là một bệ phóng giúp mình phát triển và có sự hiểu biết thông cảm với người khác.

Mặc dù Phật giáo quan niệm giữa thân và tâm có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau nhưng giáo lý đạo Phật đặc biệt chú trọng nhiều hơn đến tâm và sức mạnh của tâm. Nguồn sống và nguồn hạnh phúc hay bất hạnh nằm trong năng lực của mỗi người. Không ai có thể hại chúng ta trừ chính bản thân mình. Tùy loại tư duy mà thân thể chúng ta khỏe mạnh hay đau ốm, cao thượng hay thấp hèn. Chính vì vậy, đạo Phật xem tư tưởng là nghiệp nhân tạo nên các hành động của thân và lời nói. Vì lẽ đó, sức mạnh tinh thần được xem là vô cùng quan trọng và đạo Phật chú trọng đến sự rèn luyện tinh thần để đạt đến trạng thái sức khỏe tốt nhất. Thân và tâm đều có thể mắc bệnh nhưng vì tâm có khả năng thoát ly khỏi thân, nên vẫn có trường hợp một tâm hồn khỏe mạnh trong một thân thể bệnh tật.

Sức khỏe tinh thần của mọi người còn tùy thuộc vào năng lực chế ngự những thèm khát, hóa giải các tâm lý tiêu cực như tham lam, thù ghét và sân hận, thay đổi các khuynh hướng chiếm hữu và thô bạo. Tất cả những trạng thái tâm lý tiêu cực này đều có thể là nguyên nhân gây nên bệnh về thân và tâm. Để có thể kiểm soát và hóa giải các trạng thái tâm lý như vậy thì cần sống đạo đức và thực hành thiền định. Phương pháp thiền định không chỉ có tác dụng chữa lành bệnh cho tâm mà còn là phương pháp trau giồi tâm lý tích cực, đặc biệt là bốn tâm vô lượng: từ, bi, hỷ và xả.

Những Lời Phật Dạy

Nguyên tác: In the Buddha’s Words – An Anthology of Discourses from the Pali Canon. Tác giả: Bhikkhu Bodhi. Dịch giả: Bình Anson.

Các bài giảng của Đức Phật được bảo tồn trong kinh điển Pāli được gọi là các sutta (kinh), tiếng Sanskrit tương đương là sūtra. Mặc dù kinh điển Pāli thuộc về một bộ phái Phật giáo – bộ phái Theravāda hay Thượng tọa bộ – không có nghĩa là các bài kinh này chỉ dành riêng cho Theravāda. Các bài kinh ấy bắt nguồn từ giai đoạn sớm nhất của lịch sử văn học Phật giáo, một giai đoạn kéo dài khoảng một trăm năm sau khi Đức Phật nhập diệt, trước khi cộng đồng Phật giáo nguyên thủy phân chia thành nhiều bộ phái khác nhau. Các bài kinh Pāli có các bài kinh tương đương trong các bộ phái Phật giáo Sơ kỳ khác – các bộ phái này ngày nay không còn hiện hữu, đôi khi cũng rất giống bản Pāli, khác nhau chủ yếu là về bối cảnh và cách bố trí, nhưng không khác nhau về mặt giáo lý. Các bài kinh Pāli là những văn bản cổ xưa nhất về lời dạy của Đức Phật mà hiện nay chúng ta có được. Đó là những gì gần gũi nhất với các bài giảng của Đức Phật lịch sử. Những lời dạy được tìm trong đó là đầu nguồn của tất cả những dòng chảy tiến hóa của giáo lý và thực hành trong đạo Phật, qua nhiều thế kỷ. Vì lý do đó, các bài kinh Pāli tạo thành một di sản chung cho tất cả mọi truyền thống Phật giáo. Phật tử của tất cả các tông phái muốn hiểu được cội rễ của Phật giáo cần phải đặt ưu tiên trong việc nghiên cứu học tập các bài kinh này.

Trong kinh điển Pāli, các bài giảng của Đức Phật được sưu tập và bố trí vào các bộ kinh Nikāya. Trong hai mươi năm qua, các bản dịch mới bằng tiếng Anh của bốn bộ Nikāya chính đã được in ra trong các bản in đẹp và phổ biến rộng rãi. Nhiều người sau khi đọc các bộ kinh này đã nói với tôi rằng các bản dịch đó giúp họ hiểu biết rõ ràng hơn. Tuy nhiên, những người khác khi cố gắng tìm đọc các bản kinh Nikāya lại nói với tôi khác hơn. Họ nói rằng trong khi các bản dịch này đọc dễ hiểu hơn các bản dịch trước đó, họ vẫn cảm thấy khó khăn. Họ không thể thấy được cấu trúc tổng quát của các bài kinh, một khung sườn trong đó các bài kinh được sắp xếp. Ngay chính các bộ Nikāya không giúp gì nhiều trên phương diện này, vì cách sắp xếp dường như có vẻ khá lộn xộn – với ngoại lệ của Tương ưng bộ có cấu trúc theo chủ đề.

Trong loạt các bài giảng mà tôi tiến hành tại Tu viện Bồ-đề ở bang New Jersey, Hoa Kỳ, từ tháng Giêng 2003, tôi đã thảo ra một cấu trúc của riêng tôi để sắp xếp nội dung Trung bộ kinh. Cấu trúc này trình bày từng bước về thông điệp của Đức Phật, từ đơn giản đến phức tạp, từ sơ đẳng đến thâm sâu. Khi suy ngẫm lại, tôi thấy cấu trúc này không chỉ áp dụng cho Trung bộ, mà có thể dùng cho tất cả bốn bộ Nikāya. Do đó, cuốn sách này được tổ chức trích lục các bài kinh từ bốn bộ Nikāya, trong khuôn khổ cấu trúc dựa theo chủ đề phát triển dần lên.

Cuốn sách nhằm để 

phục vụ

 hai nhóm 

độc giả

. Nhóm thứ nhất là những người chưa quen với các bài giảng của 

Đức Phật

 và 

cảm thấy

 cần một sự 

giới thiệu

 có 

hệ thống

. Đối với các 

độc giả

 như vậy, bất kỳ 

bộ kinh

 Nikāya nào cũng có vẻ 

mơ hồ

. Tất cả bốn 

bộ kinh

 Nikāya, nếu xem cùng một lúc, có thể sẽ giống như một khu rừng – dày đặc với nhiều loại thú hoang ẩn hiện, hay như một 

đại dương

mênh mông

, đầy 

biến động

hoàn toàn

xa lạ

. Tôi 

hy vọng

 rằng cuốn sách này sẽ 

phục vụ

 như là một bản đồ để giúp những 

độc giả

 ấy đi thông qua khu rừng của các 

bài kinh

, hoặc như một con tàu mạnh mẽ để mang các vị ấy đi khắp 

đại dương

 của 

Giáo Pháp

.

Nhóm độc giả thứ hai mà cuốn sách này nhắm đến là những người, tuy đã quen với những bài kinh, nhưng vẫn chưa thấy các bài kinh đó kết hợp như thế nào trong một tổng thể khả tri. Đối với các độc giả như vậy, những bài kinh cá biệt có thể được hiểu riêng rẽ nhưng các đoạn kinh văn xuất hiện giống như những mảnh giấy của một trò chơi ghép hình rải rác trên – 9 – bàn. Một khi độc giả thông hiểu cấu trúc trong cuốn sách này, vị ấy sẽ có một khái niệm rõ ràng về cấu trúc các lời Phật dạy. Từ đó, với việc suy tư thêm nữa, vị ấy có thể xác định vị trí của bất kỳ bài kinh nào trong lâu đài Giáo Pháp, cho dù được hay không được đề cập trong cuốn sách.

Tuyển tập trích lục này, hoặc bất cứ tập trích lục kinh điển nào khác, không thể thay thế cho các bộ kinh Nikāya. Cuốn sách của tôi có hai phần, tương ứng với hai nhóm độc giả mà cuốn sách được thiết kế: (1) những người mới đến với văn học Phật giáo Sơ kỳ sẽ thấy thích thú và được động viên tìm đọc đầy đủ các bộ kinh Nikāya; và (2) những người đã có kinh nghiệm đọc các bộ Nikāya, sau khi đọc cuốn sách này sẽ có hiểu biết tốt hơn về nguồn kinh điển mà họ đã quen thuộc.

Thêm vào đó, tôi hy vọng tập sách trích lục này có thể trình bày được tầm vóc rộng lớn của trí tuệ Đức Phật. Đôi khi, Phật giáo Sơ kỳ được xem như là một công phu tu tập xuất ly thế tục, chủ yếu dành cho các nhà tu khổ hạnh và ẩn sĩ. Nhưng các bài giảng cổ xưa trong kinh điển Pāli cho chúng ta thấy rõ ràng là trí tuệ và lòng từ bi của Đức Phật đã đi sâu vào đời sống thế tục, cung cấp các hướng dẫn cho những người bình thường, để có được đạo đức và nhận thức đúng đắn. Không phải chỉ dành riêng cho tầng lớp tu sĩ, Phật giáo cổ xưa bao gồm sự cộng tác mật thiết giữa hai giới cư sĩ và tu sĩ, trong nhiệm vụ chung là giữ gìn lời dạy của Đức Phật và đồng thời giúp đỡ lẫn nhau trong nỗ lực đi trên con đường đưa đến sự tận diệt đau khổ. Để hoàn thành nhiệm vụ này, Giáo Pháp đã cung cấp những hướng dẫn, cảm hứng, niềm vui và sự khích lệ dồi dào và thâm sâu.

Hầu như tất cả các đoạn kinh văn trong cuốn sách này đã được lựa chọn từ các bản dịch tiếng Anh mới nhất của bốn bộ Nikāya. Tuy nhiên, hầu như các đoạn trích lục đó đều được tôi chỉnh sửa, không ít thì nhiều, theo sự hiểu biết của tôi về kinh văn và về tiếng Pāli. Tôi cũng tuyển chọn một vài bài – 10 – kinh của tập Phật Tự Thuyết và Phật Thuyết Như Vậy trong bộ Nikāya thứ năm – Tiểu bộ, dựa theo bản dịch tiếng Anh của ông John Ireland, với vài sửa đổi theo cách dùng thuật ngữ của tôi. Tôi ưu tiên dùng các bài kinh văn xuôi hơn là các bài theo thể kệ, vì các bài kinh văn xuôi trình bày trực tiếp và rõ ràng hơn. Khi một bài kinh có kèm theo các câu kệ, nếu các câu kệ chỉ lặp lại ý tưởng của các đoạn văn xuôi đi trước, để tiết kiệm, tôi bỏ qua các đoạn kệ đó.

Tôi xin tri ân ông Timothy McNeill và David Kittelstrom của nhà xuất bản Wisdom Publications đã khích lệ tôi kiên trì biên soạn và hoàn tất cuốn sách trong những lúc sức khỏe của tôi không được tốt. Tỳ-khưu Anālayo và Tỳ-khưu Nyanasobhano đã đọc và góp ý về các phần dẫn nhập trong cuốn sách và ông John Kelly đã giúp rà soát toàn thể cuốn sách. Tôi rất tri ân sự đóng góp của ba vị. Cuối cùng, tôi xin tri ân các học viên các khóa Pāli và khóa Phật Pháp tại Tu viện Bồ-đề với sự quan tâm nồng nhiệt về những lời giảng dạy của Đức Phật trong các bộ Nikāya, đã tạo niềm hứng khởi cho tôi biên soạn cuốn sách. Tôi đặc biệt tri ân vị sáng lập tu viện, ngài Hòa thượng JenChun (Nhân Tuấn), đã đón nhận một tu sĩ của truyền thống Phật giáo khác đến trú ngụ tại Tu viện và đã có mối quan tâm đặc biệt, nối cầu Bắc truyền và Nam truyền trong giáo lý Phật giáo Sơ kỳ.

Tỳ-khưu Bodhi

Bodhi Monastery, New Jersey, USA 2005

https://budsas.net/sach/vn24nlpd_2021-2.pdf

https://thuvienhoasen.org/images/file/RrR6_fm01QgQAGZj/nhung-loi-phat-day-2017-binh-anson-dich.pdf

https://quangduc.com/a58301/nhung-loi-phat-day-trich-luc-cac-bai-giang-trong-kinh-dien-pali

http://daotaogiangsu.com/Chi-tiet-tin/Ebook-Nhung-Loi-Phat-Day–Trich-luc-cac-bai-giang-trong-kinh-dien-Pali.htm

https://chuaadida.com/thu-vien-sach/chi-tiet-nhung-loi-phat-day-trich-luc-cac-bai-giang-trong-kinh-dien-pali/