Top 10 # Ca Dao Tục Ngữ Về Danh Dự Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend | Boxxyno.com

Ca Dao Tục Ngữ Về Danh Dự, Lòng Tự Trọng Hay Nhất

Danh dự là điều rất quý mà mỗi con người đều rất cần, bạn mất đi danh dự thì người ta sẽ nhìn bạn bằng còn mắt khác. Tuy nhiên trong cuộc sống hiện tại thì con người ngày càng sống thực dụng thì vấn đề danh dự ngày càng bị bỏ quên. Vời nhiều người thì sống ở đời Danh dự là điều quan trọng, họ làm việc gì cũng nghĩ tới danh dự và tự trọng của bản thân chú không bất chấp tất cả vì những lợi ích trước mắt hoặc đánh mất đi lòng tự tròng của mình. Ca dao tục ngữ về danh dự hay và ý nghĩa nhất

Các bài viết liên quan tới chủ đề danh dự đáng chú ý:

Mỗi người đều có một phẩm chất, một tính cách khác nhau, không ai là giống nhau, không ai có những điểm giống nhau hoàn toàn. Mỗi người có một phẩm chất, một tinh thần riêng như: tự trọng, trung thực, kiên cường, kiên trung, tự cao, tự đại, khiêm tốn, thật thàm dũng cảm,… một trong những phẩm chất mà mỗi người ai cũng có đó là danh dự.

Danh dự là điều mà bất kỳ ai cũng phải giữ cho mình, có danh dự tự trọng thì tư cách con người mới được xây dựng 1 cách hoàn thiện hơn

Trong xã hội và cuộc sống ngày nay thì danh dự luôn được coi trọng và được mọi người nể phục. danh dự được con người đánh giá dựa trên tinh thần và đạo đức của con người trong cuộc sống cũng như trong xã hội. người có anh dự luôn được mọi người trong cuộc sống và xã hôi kính trọng. để nói lên đức tính danh dự của con người thì có nhiều bài thơ, bài văn nói về phẩm chất này. Nhưng có một cách nói về phẩm chất này một cách chân thật nhất là ca dao tục ngữ. chúng ta cùng đi tìm hiểu về những câu ca dao tục ngữ nói về danh dự.

Tục ngữ về danh dự:

Câu 1:

Cọp chết để da, người ta chết để tiếng.

Cọp là một con vật rất hung dữ, nói đến ai cũng sợ và khiếp hoảng. Nhưng khi con cọp có hung dữ và hùng hổ đến đâu thì khi chết cũng để lại da mà thôi. Còn đối với con người khi người ta chết sẽ để lại tiếng, khi sống tốt thì để tiếng tốt, khi sống xấu thì sẽ để tiếng xấu. Chính vì thế danh dự con người rất quan trọng đối với mỗi con người chúng ta hiện nay.

Câu 2:

Danh dự quý hơn tiền bạc.

Câu tục ngữ nêu cao phẩm chất danh dự của mỗi con người. câu tục ngữ so sánh danh dự còn cao quý hơn tiên bạc. Chúng ta ai cũng biết khi sống thì ai cũng cần tiền, tiền để rang trải cuộc sống, nhưng tiền không thể quý hơn danh dự, danh dự của mỗi con người.

Câu 3:

Được tiếng còn hơn được miếng.

Câu tục ngữ nêu cao sự quan trọng của danh dự. khi con người sống trong cuộc sống thì tiếng dể lại còn đáng quý hơn miếng ăn. Tiếng là danh dự, là miệng đời, là những suy nghĩ và tình cảm của con người dành cho con người. miếng là thức ăn, là tiền bạc là những vật chất. câu tục ngữ nêu cao giá trị của tiếng hơn so với miếng, có nghĩa là danh dự quan trọng hơn tiền bạc.

Câu 4:

Câu tục ngữ trên nói lên rằng khi con người chết đi thì cái nết, tính cách và phẩm chất của con người luôn còn. Nết của con người là phẩm chất tốt đẹp, nhưng khi sống tốt thì chết người ta biết đến tốt, để lại tiếng tốt còn xấu thì ngược lại.

Câu 5: Chết vinh còn hơn sống nhục

Ý nghĩa câu ca dao đã là con người phải sống cho đáng sống, coi trọng danh dự và lòng tự trọng không chịu khuất phục bởi những cái xấu những cạm bẫy sẵn sàng chịu thiệt thòi những vẫn giữ được lương tâm của mình

Tổng hợp một số câu tục ngữ về danh dự:

Đói miếng hơn tiếng đời.

Ăn một miếng tiếng một đời.

Áo rách cốt cách người thương.

Giữ quần áo lúc mới may, giữ thanh danh lúc còn trẻ.

Ăn có mời, làm có khiến.

Giấy rách phải giữ lấy lề.

Đói cho sạch, rách cho thơm.

Kính già yêu trẻ.

Tốt danh hơn lành áo.

Sống chớ khom lưng, uốn gối, dập đầu.

Yêu trẻ, trẻ đến nhà; kính già, già để tuổi cho.

Người đừng khinh rẻ người.

Quân tử nhất ngôn.

Vô công bất hưởng lợi.

Bụt không thèm ăn mày ma.

Chết đứng hơn sống quỳ.

Ca dao về danh dự:

Câu 1:

Nói lời phải giữ lấy lời

Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.

Câu ca dao nói về phẩm chất của con người là giữu lời hứa, lời hứa là danh dự là phẩm chất tốt đẹp của con người. câu ca dao nói rằng khi lời nói đã nói ra rồi thì phải giữ lời, đừng nuốt lời như con bướm đậu rồi lại bay.

Câu 2:

Trong đầm gì đẹp bằng sen

Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng

Nhụy vàng bông trắng lá xanh

Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Bài ca dao nói về loài hoa sen, một loài hoa đẹp và tinh khiết. Loài hoa sen tượng trưng cho nét đẹp của con người, vẻ đẹp danh dự của con người, dù cho thế nào thì nó vẫn không lay chuyển ý chí cũng như tinh thần của mình trong cuộc sống giống như một người giữ danh dự, chữ tín.

Tổng hợp một số câu ca dao về danh dự:

Rượu ngon bất luận be sành

Áo rách khéo vá, hơn lành vụng may.

Thuyền dời bến nào bến có dời

Khăng khăng quân tử một lời nhất ngôn.

Không biết thì dựa cột mà nghe.

Cười người chớ vội cười lâu

Cười người hôm trước hôm sau người cười.

Trên đây là Ca dao, tục ngữ, câu nói về danh dự hay nhất, hi vọng bài viết đã đáp ứng được những kiến thức mà bạn cần. xin chân thành cảm ơn.

Ca Dao Tục Ngữ Về Mưa Nắng Bão Lụt, Thời Tiết, Dự Báo Thời Tiết

Tổng hợp những ca dao tục ngữ về mưa nắng bão lụt, thời tiết, dự báo thời tiết

Có những câu ca dao tục ngữ nào hay về mưa nắng bão lụt, thời tiết, dự báo thời tiết nhỉ?

Bao giờ Hòn Đỏ mang tơi Hòn Hèo đội mũ thì trời sắp mưa

Hòn Đỏ là tên một hòn đảo nhỏ nằm ở phía Đông Bắc thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, cách đất liền khoảng 500m. Đảo này cùng với Hòn Chồng được xem là biểu tượng du lịch của Nha Trang. Đây là câu ca dao dự báo thời tiết ở tỉnh Khánh Hòa.

2.

Bao giờ trời kéo vảy tê Sắp gồng sắp gánh ta về kẻo mưa

“Vẩy tê”là đám mây có dạng như vẩy con tê tê. Con tê tê. Mây vẩy tê tê. Tua rua: Tên gọi dân dã trong tiếng Việt của cụm sao phân tán M45 trong chòm Kim Ngưu), ở Việt Nam thường thấy được vào lúc sáng sớm đầu tháng 6 dương lịch. Khi người ta thấy đám mây này thì trời sẽ sắp mưa.

3.

Bầu nắng, mướp đắng mưa, dưa đại hạn

Câu tục ngữ ám chỉ những củ quả dự báo được trước thời tiết.

4.

Chớp thừng chớp chảo Không bão thì mưa

5.

Chóp chài đội mũ, mây phủ đá bia Ếch nhái kêu lia, trời mưa như trút

Chóp chai là một ngọn núi cao 391 mét, nổi lên giữa đồng bằng Tuy Hòa, thuộc địa phận xã Bình Kiến, ngoại ô thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên. Núi Chóp Chài có hình dáng khá vuông vức, trông tựa như một kim tự tháp. Đứng trên đỉnh núi sẽ có được tầm nhìn bao quát tới biển và vùng đồng bằng dưới chân núi. Lấy hình ảnh núi Chóp chai và ếch nhái kêu để dự báo được trời mưa ở tỉnh Phú Yên.

7.

Chớp đằng đông, vừa trông vừa chạy

8.

Chuồn chuồn bay thấp thì mưa Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm

Khi trời nắng, ko khí khô, nên thân và cánh chuồn chuồn rất nhẹ, có thể bay cao đc.Khi trời sắp đổ mưa, độ ẩm ko khí tăng cao, làm đôi cánh của chuồn chuồn trở nên ẩm và nặng. Vì thế lúc này chuồn chuồn bay cao không đc. Nên phải bay là là dưới thấp.Quan sát đc đặc điểm này của chuồn chuồn mà dân gian có thể dự đoán đc khi nào trới sắp mưa.

9.

Cò bay ngược, nước vô nhà Cò bay xuôi nước lui ra biển

10.

Đêm trời tang, trăng sao không tỏ, Ấy là điềm mưa gió tới nơi. Đêm nào sao sáng xanh trời, Ấy là nắng ráo yên vui suốt ngày. Những ai chăm việc cấy cầy, Điềm trời trông đó, liệu xoay việc làm.

11.

Ếch kêu uôm uôm Ao chuôm đầy nước

Đây là một kinh nghiệm về việc dự đoán trời mưa. Ếch là một loài động vật rất mẫn cảm với việc đổi thay thời tiết, nhất là khi trời trở trời mưa. Khi trời chuẩn bị kéo cơn mưa, ếch thường cất tiếng kêu lên bờ ao, hồ, đồng ruộng. Chính vì thế mà dựa vào tiếng kêu của ếch, dân gian ta có thể biết trước trời sắp có mưa

12.

Kiến đen tha trứng lên cao, Thế nào cũng có mưa rào rất to.

Loài kiến có khả năng dự đoán trước mưa bão do đó khi thấy kiên tha trứng tức là mưa vì khi cảm nhân nguy hiểm đến tổ thì nó sẻ tìm nơi an toàn cho tổ, còn việc mưa rất to là do kiến cảm thấy mưa to đến mức có thể tiêu diệt hết gióng nòi mình nên phải di chuyển đến cây cao thật cao để có thể tránh dược mưa to

13.

Lập lòe trời chớp Vũng Rô Mây che Hòn Yến gió vô Chóp Chài

Vũng Rô, Hòn Yến, Chóp Chài là những địa danh nổi tiếng ở Phú Yên, đây là câu ca dao dự báo thời tiết ở vùng đất “Hoa vàng cỏ xanh”.

14.

Mưa tháng bảy gẫy cành trám Nắng tháng tám rám trái bưởi

Trám gọi là cà na từ cách phát âm của người Triều Châu, âm Hán Việt là cảm lãm, một loại cây thân gỗ thường đươc trồng để lấy gỗ và nhựa. Bưởi thì chắc ai ai cũng biết rồi. Hai câu ca dao dự báo thời tiết về mưa và nắng.

15.

Ông tha mà bà chẳng tha Làm nên cái lụt hăm ba tháng mười

Câu này là tục ngữ của người dân miền Trung nghĩa là, dù có mưa gió, bão bùng trước đó bao nhiêu trận đi nữa, nhưng người dân vẫn chưa yên tâm nếu như chưa qua ngày 23 tháng 10 âm lịch.

17.

Nồm động đất, Bấc động khơi

18.

Ráng vàng thì nắng ráng trắng thì mưa

19.

Sao dày thì mưa, sao thưa thì nắng Sao ló trời nắng, sao vắng trời mưa

Đây là 2 câu ca dao ông cha ta đúc kết lại kinh nghiệm dự báo thời tiết bằng cách nhìn sao trên trời.

20.

23.

Tháng Giêng động dài Tháng Hai động tố Tháng Ba nồm rộ Tháng Tư nam non Tháng Sáu nam dòn Tháng Bảy mưa bãi Tháng Tám mưa giông Tháng Chín mưa ròng Tháng Mười lụt lớn

24.

Tháng giêng rét dài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân

Đó là ba đợt rét đầu năm ở miền Bắc. Rét dài là đợt rét cho cây trổ hoa đấy. Sau đó là rét lộc tức là đợt rét khi cây nẩy mầm non. Rét Nàng Bân hay còn gọi rét muộn.

25.

Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng Ngày tháng mười chưa cười đã tối

Đó là một câu ca dao mà ông cha đã truyền lại cho chúng ta rất chính xác nhờ vào những gì mà mình đã đúc kết được trong cuộc sống mà ngày nay nó vẫn rất khả thi. Với ý nghĩa là tháng năm thì thời gian ban ngày dài hơn thời gian ban đêm. Còn vào tháng mười thì thời gian ban ngày ngắn hơn thới gian ban đêm.

26

Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão

Heo may là gió bấc thổi nhẹ đầu thu. Tháng bảy âm lịch sẽ có gió bấc thổi và chuồn chuồn bay ra nhiều là trời sắp có bão.

27.

Tháng bảy kiến đàn đại hàn hồng thuỷ

Vào tháng 7, mùa hè của nửa Cầu Bắc trong đó có Việt Nam nhiệt độ không khí ở trên lục địa cao trở thành khu áp thấp hút gió khối khí ẩm từ Thái Bình dương vào gây nên những trận mưa lớn cùng với sự xuât hiện của các khí áp thấp gây nên mưa bão ở Bắc bộ và Bắc trung Bộ

28.

Tháng bảy mưa gảy cành trám Tháng tám nắng rám trái bòng

29.

Trời nồm tốt mạ Trời giá tốt rau

30.

Trời chớp Mũi Nạy, thức dậy mà đi Trời chớp Đề Di ở nhà mà ngủ

31.

Tháng Năm tháng Sáu, mặt trời đi chệch Tháng Bảy, tháng Tám mặt trời đi xiên Em là phận gái thuyền quyên Đừng cho sóng dợn, đò nghiêng nước vào Đò nghiêng sóng dợn ba đào Trong dễ thấy đục, nhưng đục nào thấy trong

32.

Tháng một là tháng trồng khoai, Tháng giêng trồng đậu, tháng hai trồng cà. Tháng ba cày vỡ ruông ra Tháng tư làm mạ, mưa sa đầy đồng.

33.

Đầu năm sương muối ,cuối nam gió nồm

34.

Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa

35.

Mùa hè đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa

Dự Báo Thời Tiết Qua Ca Dao, Tục Ngữ Của Người Việt Đồng Bằng Bắc Bộ

TS. Nguyễn Thị Phương Anh

Khoa Việt Nam học và tiếng Việt

Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN

Lao động sản xuất ra của cải vật chất bao giờ cũng là một quá trình tương tác với điều kiện tự nhiên. Vì thế con người luôn luôn phải dựa vào tự nhiên để vừa tận dụng, khai thác những mặt thuận lợi đồng thời cũng phải tìm cách thích ứng, hài hoà với tự nhiên. Vi vậy việc khám phá để chinh phục và thích ứng với tự nhiên, phục vụ nhu cầu tồn tại và phát triển luôn là mối quan tâm hàng đầu của các cư dân nông nghiệp. Khi khoa học kỹ thuật chưa phát triển, con người chỉ có thể quan sát thực tế để rút ra những quy luật nhằm thích ứng với tự nhiên và vận dụng nó vào đời sống hàng ngày. Chính vì thế ca dao, tục ngữ phản ánh về những hiện tượng khí hậu, thời tiết là một bộ phận quan trọng ra đời sớm nhất thể hiện những chiêm nghiệm và dự báo thời tiết của cha ông ta từ ngàn xưa để lại được lưu truyền trong kho tàng tri thức ca dao, tục ngữ của người Việt.

Để nương nhờ vào tự nhiên nhưng không hoàn toàn lệ thuộc vào tự nhiên, con người phải hiểu được các cấu trúc và quy luật của yếu tố tự nhiên để đề phòng và kịp thời ứng phó. Trong ứng xử với tự nhiên, một mặt con người biểu thị sự quy phục, sợ hãi, nương nhờ vào tự nhiên nhưng mặt khác con người lại thể hiện sự vươn lên nắm bắt, làm chủ các quy luật của tự nhiên.

Nhưng thái độ sùng bái, tâm lý nương nhờ thiên nhiên của cư dân nông nghiệp được hiểu ra sao, đến mức độ nào không dễ gì có thể xác định được. Việc thống kê để tìm ra tần xuất những câu có nội dung phản ánh thái độ của cư dân với tự  nhiên có thể giúp chúng ra phần nào hình dung được mức độ đó.

Thực tế thống kê cho thấy, trong số 411 câu ca dao, tục ngữ nói về khí hậu thời tiết thì có 57 câu (chiếm tỉ lệ 14%) phản ánh nội dung con người phụ thuộc, nương nhờ, vào tự nhiên. 354 câu (chiếm 86%) nói về kinh nghiệm dự báo thời tiết. Chúng tôi tạm gọi loại này là con người làm chủ được tự nhiên. Những kinh nghiệm này rút ra thông qua việc quan sát trực tiếp và quan sát các sự vật trung gian.

1. Con người phụ thuộc, nương nhờ vào tự nhiên

Từ buổi bình minh của lịch sử, thiên nhiên là môi trường sống thân thuộc nhưng cũng hết sức khắc nghiệt đối với con người. Rừng rậm hoang vu, đầm lầy biển cả, mưa nắng thất thường… luôn là mối lo âu canh cánh trong lòng người nông dân “Ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả”. Nhưng rồi trước thiên nhiên – những đấng siêu nhiên đáng tôn sùng, người nông dân lại tự động viên an ủi mình “Biết sự trời mười đời chẳng khó”. Vì vậy cách khôn khéo nhất của người nông dân là gửi gắm lòng tin vào đấng tối cao là ông Trời để cầu xin Trời đất phù hộ độ trì cho con người và vạn vật tốt tươi, mưa thuận gió hòa. Họ luôn “Trông trời, trông đất trông mây, trông mưa, trông nắng  trông ngày trông đêm…”,” Ơn trời mưa nắng phải thì// Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu…”, “Nhờ trời mưa thuận gió hoà

Con số thống kê cho thấy trong tổng số 57 câu có nội dung con người phụ thuộc vào Thiên nhiên, Trời đất đều bắt đầu bằng các động từ có ý nghĩa cầu xin, trông mong và tỏ lòng biết ơn như: “Trông trời”, “Ơn trời”, “Lạy trời” để cầu xin trời đất mang đến cho họ những điều tốt lành, mưa thuận gió hòa.

Biểu đồ 1: Biểu thị hành động và đối tượng con người nương nhờ vào thiên nhiên

Hành động cầu xin của con người Đối tượng cầu xin của con người

Người nông dân chân lấm tay bùn, hồn hậu chất phác luôn tin rằng “cứ xin là Trời cho”, “cứ cầu là được”. Vì thế con người luôn cầu xin Trời ban cho Mưa – Nắng – Gió (nước, ánh sáng và không khí) để cuộc sống con người và mùa màng bội thu. Đặc biệt với nền sản xuất chính của người Việt là canh tác  lúa nước, mưa là một trong những yếu tố thời tiết có ý nghĩa quyết định trong nông nghiệp. Cho nên bà con nông dân đã nhận thức được từ rất lâu có mưa mới có nước để cày, bừa, cấy, gặt… “Không nước không phân

2. Con người làm chủ tự nhiên

Miền Bắc là nơi có bốn mùa, mùa nào cũng có những thử thách khắc nghiệt đi kèm với những thuận lợi. Mùa xuân ấm áp cây cối tốt tươi cũng là mùa của sâu bệnh. Mùa hè nắng nhiều sinh hạn hán, mưa lắm hay gây ra lụt lội, mùa đông gió rét, sương muối tác hại đến vật nuôi, cây trồng… Bằng những chiêm nghiệm, quan sát trực tiếp các hiện tượng thiên nhiên và những biểu hiện của các vật trung gian người ta đã rút ra những kinh nghiệm có tính quy luật của các hiện tượng làm biến đổi thời tiết, khí hậu giúp người nông dân biết trước để góp phần hạn chế những tác hại của thiên tai và rủi ro trong sản xuất.

Qua số liệu thống kê cho thấy có 354 câu trên tổng số 411 câu nói về khí hậu, thời tiết, chiếm 86% có nội dung về thời tiết với đầy đủ các khía cạnh thể hiện con người đã cố gắng tìm cách để chinh phục và làm chủ thiên nhiên. Trong đó, 76 câu (chiếm 21%) qua quan sát những biểu hiện của động vật, 51câu (chiếm 15%) qua quan sát những biểu hiện của thực vật, 227 câu (chiếm 64%) nói về các hiện tượng tự nhiên khác cùng tham gia vào dự báo thời tiết.

2.1 Quan sát các hiện tượng tự nhiên

Theo các chuyên gia về khí tượng, thủy văn các hiện tượng về khí hậu thời tiết có thể chia thành 3 loại[1]: Hiện tượng xảy ra trong tầng khí quyển gần mặt đất như: mây, mưa, gió, sương… Những hiện diện trong khí quyển như dông, sấm, chớp… Những hiện tượng quang học trong khí quyển như cầu vồng, quầng, tán… Tất cả những hiện tượng thiên nhiên đó đã được phản ánh với mật độ khá dày trong kho tàng ca dao, tục ngữ về khí hậu thời tiết .

Bảng 1: Các hiện tượng tự nhiên tham gia vào dự đoán thời tiết

Hiện tượng tự nhiên Số lượng (câu) Tỉ lệ (%) Tổng

(số lượng/ %)

Các hiện tượng tự nhiên tham gia vào dự báo thời tiết Hiện tượng ở tầng khí quyển gần mặt đất Mưa 29 12.8  

77/33.9%

Nắng 22 9.7

Mây 8 3.3

Gió 11 4.9

Sương 7 3.0

Hiện tượng trong khí quyển Dông 7 3.0  

27/12.0%

Sấm 5 2.2

Chớp 15 6.6

Hiện tượng quang học trong khí quyển Cầu vồng 6 2.6  

43/ 19.0%

Quầng 5 2.2

Tán 3 1.3

Trăng 12 5.3

Sao 6 2.6

Ráng 4 1.8

Mống 7 3.0

Thời gian nông lịch Tháng 29 12.8 29/13.0%

Các hiện tượng khác 51 22.1 51/22.0%

Tổng 227

100 227/100

Con số thống kê ở bảng 1 cho thấy người Việt tích lũy được một kho kinh nghiệm làm căn cứ dự báo hết sức phong phú về tình hình thời tiết qua mối quan hệ giữa các hiện tượng của tự nhiên. Con người có thể căn cứ vào các hiện tượng trong khí quyển, hiện tượng khí quyển gần mặt đất, hiện tượng quang học, thời gian nông lịch như “tháng”:  và các hiện tượng xung quanh khác để nhận biết được thời tiết sắp diễn ra như thế nào. Từ kết quả phân tích tư liệu cho biết các hiện tượng khí quyển gần mặt đất như: mưa, nắng, mây, gió, sương tham gia vào dự báo thời tiết, chiếm tỷ lệ cao nhất (33.9%) so với thời gian nông lịch và các hiện tượng tự nhiên khác tham gia vào dự báo thời tiết (22%). Chẳng hạn: Mặt trời có quầng thì hạn, mặt trăng có tán thì mưa, Mặt trăng úa đỏ trời sắp có mưa, Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa, Nắng lắm thì mưa nhiều, Sấm động gió ta;; Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm… Hay căn cứ vào các hiện tượng quang học trong khí quyển như: “quầng, tán, ráng, vồng, trăng, sao…” Ví dụ: Ráng mỡ gà ai có nhà thì chống; Nắng chóng trưa, mưa chóng tối; Mống đông, vồng tây, không mưa dây cũng bão giật”; Trăng quầng thì cạn (hạn hán), trăng tán thì mưa… Hiện tượng trong khí quyển như “Dông, sấm, chớp”; chẳng hạn như: “Chớp đàng đông nước đồng tràn ngập, Chớp Đông nhay nháy gà gáy thì mưa, Sấm ra cà trổ, Sấm tháng chín, nhịn ăn rau, Chớp bể chớ mừng, chớp rừng chớ lo”. Người nông dân có thể xem các hiện tượng của thiên nhiên cũng có thể dự báo được kết quả của mùa vụ, cây trồng “Cày ruộng tháng năm, xem trăng rằm tháng tám”.

Trong số các hiện tượng tự nhiên tham gia vào dự báo thời tiết thì mưa, nắng có tần số xuất hiện cao nhất so với các hiện tượng ở tầng khí quyển gần mặt đất, chiếm 33.9%. Vì vậy người dân rất chú trọng quan sát đến hai kiểu thời tiết này dưới nhiều góc độ. Tiếp đến là tần số xuất hiện của hiện tượng chớp, gió, mây. Bởi vì tất cả những hiện tượng này có ý nghĩa quyết định trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp và nó xuất hiện thường xuyên trong thế giới tự nhiên nên đã được ông cha ta quan sát để rút ra kinh nghiệm và đưa vào lời ăn tiếng nói hàng ngày, gần gũi với đời sống của người dân. Những hiện tượng đó có thể quan sát ở nhiều góc độ, nhiều biểu hiện khác nhau. Và điều đó cũng chứng tỏ những biểu hiện báo hiệu trời mưa, nắng, gió được quan sát qua các kiểu hiện tượng báo trước như: chớp, gió mây, mống, ráng, trăng, sao… luôn là đối tượng tìm hiểu của người bình dân.

Thời gian nông lịch trong năm của người Việt từ ngàn xưa cho đến nay được chia thành 12 tháng: từ tháng giêng đến tháng mười hai hay còn được chia thành mùa: xuân, hạ, thu, đông. Theo đó, tất cả các hiện tượng thiên nhiên diễn ra hàng ngày đều được đề cập tương đối đầy đủ trong đó. Điều này đã được người nông dân đúc kết: “Qua giêng hết năm, qua rằm hết tháng”. Căn cứ vào thời gian mà người nông dân quan sát, chiêm nghiệm thời tiết trong ngày và trong năm “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, ngày tháng mười chưa cười đã tối”, “Tháng bảy nước nhảy lên bờ”, “Tháng chín mưa rươi, tháng mười mưa cũ”, “Tháng ba mưa đám, tháng tám mưa cơn”, “Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân…Người dân Việt từ xa xưa đã quan sát hiện tượng để đưa ra những nhận xét tinh tế trước sự biến đổi của thời tiết. Không chỉ có sự khác biệt giữa mùa này, mùa kia mà còn có sự thay đổi rõ nét trong một mùa. Các tháng trong năm được nhắc đến nhiều nhất đó là tháng giêng, tháng bảy, tháng ba, tháng chin, tháng mười. Những hiện tượng thời tiết được cha ông ta quan sát cụ thể, tỉ mỉ và phải chăng ngày nay có một nền chiêm tinh học về dự báo thời tiết được kế thừa từ những tri thức dân gian của ông cha. Để rồi từ đó mới phát minh ra những công cụ đo nắng, đo mưa, tính gió, tính mây để dự báo thời tiết từng ngày cho con người như ngày nay.

Trong bảng thống kê các thực thể trong tự nhiên và các vật dụng trong nhà cũng tham gia vào dự báo thời tiết. Những đối tượng được quan sát chúng tôi xếp vào cột các hiện tượng khác có số lượng gồm 51 câu (chiếm 22.1%). Những thực thể ngoài thiên nhiên và đồ vật hiện hữu xung quanh đời sống hàng ngày của con người cũng đã có những biểu hiện ra bên ngoài mà con người quan sát được như:”Ao tù vẩn đục và hôi, bọt nổi lên nước thì trời sắp mưa”; “Chĩnh đổ mồ hôi mưa trôi đầy đồng”;”Đá đổ mồ hôi, mưa trôi đầy đồng”…

Dù có biểu hiện ở mặt này hay mặt khác nhưng tất cả các sự vật, hiện tượng tham gia vào dự báo thời tiết đều có những biểu hiện nhạy cảm và gần gũi với đời sống con người.

2.2 Dự báo thời tiết qua quan sát động vật

Việc quan sát động vật làm căn cứ cho dự báo thời tiết là một trong những nội dung quan trọng được người Việt đề cập trong kho tàng ca dao, tục ngữ. Tuy số lượng câu ca dao, tục ngữ không nhiều, chỉ với 76 câu, nhưng những chỉ báo thu nhận được qua biểu hiện của động vật là rất quan trọng vì đó là những đối tượng nhạy cảm với những giác quan có liên hệ chặt chẽ với tự nhiên. Các loài động vật báo hiệu thời tiết được phản ánh qua ca dao, tục ngữ có thể phân ra thành 5 nhóm như sau: Nhóm các loài chim, nhóm côn trùng, nhóm động vật lưỡng cư, nhóm động vật dưới nước và nhóm bò sát.

Bảng 2: Động vật tham gia vào dự báo thời tiết

Động vật Số lượng (câu) Tỉ lệ (%) Tổng

(số lượng/ tỉ lệ%)

Động vật tham gia vào dự báo thời tiết  

Nhóm các loài chim

Én 17 23.0  

30/37.4

Cò 6 8.0

Sếu 1 1.3

Ác 1 1.3

Bồ câu/Cu cu 3 4.0

Nhóm côn trùng Kiến 10 13.1  

21/ 27.7

Chuồn chuồn 5 6.5

Ong 2 2.6

Đom đóm 2 2.7

Mối 1 1.3

Tò vò 1 1.3

Nhóm động vật dưới nước Cá 13 17.1 17/24.1

Ốc 3 4.0

Cua 1 1.3  

Nhóm động vật lưỡng cư Cóc 3 3.9 5/6.6

Ếch 2 2.7

Nhóm bò  sát Tắc kè 1 1.3 3/3.9

Rắn 2 2.7

Tổng 76 100 76/100

Những loài vật gắn bó với đồng ruộng thường có những biểu hiện dự báo về thời tiết. Hàng ngày trên cánh đồng của mình, người nông dân nhìn vào những loài vật để cảm nhận sự thay đổi của thời tiết. Từ đó, họ có cách ứng dụng thời tiết vào trong công việc canh tác của nhà nông cho phù hợp và kịp mùa vụ.

Trong tổng số 16 loài vật tham gia vào dự báo thời tiết, sau con chim én với tần số nhiều nhất là 17 lần là con cò, xuất hiện 6 lần (tỉ lệ 8.0%), con ác, con sếu xuất hiện ít nhất là 1 lần (1.3%). Con én là một loài chim nhỏ trong tự nhiên, lông màu đen, cánh dài và nhọn, chân ngắn để có thể đậu được nhưng không thể đi lại được trên mặt đất. Chim én bay nhanh (35m/s), thường gặp nhiều vào mùa xuân. Vào những ngày cuối đông sang xuân, những đàn chim én di trú để tránh cái lạnh của mùa đông. Để rồi khi xuân về, én cùng gió bay về quê hương của mình và bắt đầu bước vào một cuộc sống mới. Ở Việt Nam, chim én được coi là sứ giả của mùa xuân, mùa xuân và chim én là hai biểu tượng có quan hệ mật thiết với nhau, nhất là ở nơi có khí hậu nhiệt đới như nước ta. Ở châu Âu, chim én trở thành một hình ảnh biểu trưng cho sự hồi quy vĩnh cửu và bố cáo về sự phục sinh. Trong thần thoại thế giới Celtic, chim én lại biểu trưng cho sự phì nhiêu, sự luân phiên và sự đổi mới. Còn trong Đạo Hồi, chim én biểu trưng cho đức lương thiện và là loài chim của thiên đường. Với khả năng nhạy cảm và tinh tế của loài chim én, người Việt đã quan sát chim én để biết được diễn biến của thời tiết sắp xẩy ra. Chim én đã được lưu truyền trong kho tàng ca dao, tục ngữ người Việt về nội dung dự đoán thời tiết khá đậm nét.

Tần số xuất hiện đứng thứ hai sau nhóm các loài chim là nhóm các con vật sống dưới nước: cá, ốc, cua xuất hiện 17 lần chiếm 24.1%. Trong số đó cá (nói chung) là một con vật được nhắc đến nhiều nhất 13 lần (tỉ lệ 17.1%). Trong đời sống người Việt, cá là sinh vật quen thuộc và gợi liên tưởng mạnh hơn cả. Với đặc điểm bản thể cá là một sinh vật mà đời sống gắn với không gian nước rộng lớn, cá có khả năng báo hiệu sự thay đổi của thời tiết “Cá ngoi mặt nước là trời sắp mưa, Gió bấc cá thu, sương mù cá đục, Mồng bốn cá đi ăn thề, mồng tám cá về cá vượt vũ môn”…

Nhóm côn trùng gồm có 5 loài vật: kiến, chuồn chuồn, ong, mối, tò vò tham gia vào dự báo thời tiết với tổng số xuất hiện 14 lần (chiếm tỉ lệ 18.6%) đứng thứ 3 trong nhóm thực vật tham gia vào dự báo thời tiết. Trong nhóm đó có chuồn chuồn xuất hiện nhiều nhất là chuồn chuồn 5 lần, kiến 3, ong 2, đom đóm 2, mối và tò vò 1 lần. Chuồn chuồn trong thiên nhiên là một trong những loài côn trùng có khả năng thể hiện giá trị thẩm mỹ cao của lớp sâu bọ do có đôi cánh chập chờn với các loài hoa, với thiên nhiên khoáng đạt. Vì vậy chuồn chuồn là loài vật rất nhạy cảm với thời tiết. “Chuồn chuồn bay thấp thì mưa, bay cao thì nắng bay vừa thì râm”

Nhóm động vật lưỡng cư chỉ có 2 loại (cóc, ếch) và nhóm bò sát (tắc kè, rắn) tham gia vào dự báo thời tiết. Đây là loại động vật rất nhạy với thời tiết, nhưng tính dự báo của chúng khá đơn điệu nên cũng chỉ được nhắc đến trong một số trường hợp.

2.3 Dự báo thời tiết qua quan sát thực vật

Bảng 3: Thực vật tham gia vào dự báo thời tiết

Thực vật Số lượng (câu) Tỉ lệ (%) Tổng

(số lượng, %)

Thực vật tham gia vào dự báo thời tiết Cây trồng Cây lương thực Lúa 18 35.0 22/42.7

Khoai 4 7.9

Cây ăn quả Nhãn 3 5.9  

12/23.8

Bưởi 2 4.0

Ổi 1 2.0

Dâu 2 4.0

Chuối 1 2.0

Sim 1 2.0

Trám 1 2.0

Cau 1 2.0

Cây hoa màu Dưa 3 5.9 6/11.7

Cà 2 3.9

Mía 1 2.0

Cỏ cây (có trong tự nhiên) Cây (Rễ) si 4 8.0 7/14.0

Tre 1 2.0

Xoan 1 2.0

Bàng 1 2.0

Cỏ Cỏ gà 3 5.9 4/7.8

Rêu 1 2.0

Tổng 51 100 51/100

Trong số các loài thực vật tham gia vào dự báo thời tiết, có thể chia ra thành 5 nhóm: Nhóm cây lương thực (lúa, khoai), nhóm cây hoa màu (dưa, cà, mía), nhóm cây ăn quả (nhãn, bưởi, ổi, dâu, chuối sim, trám, cau) nhóm cỏ cây (có trong tự nhiên) (cỏ gà, rêu, (rễ) si, tre, xoan, bàng). Nhóm cây lương thực tuy chỉ có mặt 2 loại lúa và khoai nhưng có tần số xuất hiện cao hơn cả 22/51 lần (chiếm tỉ lệ 42.7%), lúa xuất hiện 18 lần, khoai xuất hiện 4 lần. Điều này cũng dễ hiểu vì nền sản xuất của Việt Nam chủ yếu là sản xuất nông nghiệp trong đó cây lúa chiếm một vị trí rất quan trọng. Cây lúa rất gần gũi với người nông dân, lúa được coi là món ăn chính để nuôi sống con người. Vì vậy ngoài việc xuất hiện tên chính là lúa, chúng tôi còn thống kê được 23 lần xuất hiện với các tên của biến thể như: mạ, đòng đòng, thóc, gạo “Chớp đàng đông mưa dông mạ tốt; Trông mưa cho tốt lúa đòng

Các nhóm cây có tần số xuất hiện tiếp theo lần lượt là nhóm cây ăn quả 12 lần với 8 loài cây khác nhau, chiếm 23,8%, Nhóm cỏ cây (nói chung) xuất hiện 11 lần với 6 loại cây chiếm tỉ lệ 21.8%. Cuối cùng là loại cây hoa màu với số lần xuất hiện là 6 với 3 loại cây trồng chiếm tỉ lệ 11.7%. Trong nhóm thực vật, ngoài việc quan sát sự thay đổi của cây lúa, người nông dân còn rất chú ý đến những biểu hiện của cây nhãn, cỏ gà, rễ si, dưa, cà, chuối, tre… để dự báo thời tiết.

KẾT LUẬN

Con người phụ thuộc vào Thiên nhiên, Trời đất đều bắt đầu bằng các động từ “Trông trời”, “Ơn trời”, “Lạy trời” để cầu xin trời đất mang đến cho họ những điều tốt lành. Trong đó: Mưa, nắng là hai hiện tượng có tần số xuất hiện cao nhất so với các hiện tượng tự nhiên tham gia vào dự báo thời tiết.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Trần Thúy Anh (2009), Ứng xử cổ truyền với tự nhiên và xã hội của người Việt châu thổ Bắc Bộ qua ca dao, tục ngữ, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

Nguyễn Duy Cách (2001), Tri thức về lao động sản xuất qua ca dao, tục ngữ, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 4, tr.15.

Nguyễn Nghĩa Dân (1987), Đạo lý trong tục ngữ, Tạp chí Văn học, số 5, tr.57-66.

Chu Xuân Diên (2004), mấy vấn đề văn hóa và văn học dân gian Việt Nam, Nxb Văn nghệ TPHCM, tr.282.

Vũ Dung, Thúy Anh, Vũ Quang Hào (1997), Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

Vũ Minh Giang (2009), Lịch sử Việt Nam truyền thống và hiện đại, Nxb Giáo dục.

Diệp Đình Hoa (2000), Người Việt vùng đồng bằng Bắc Bộ, Nxb Khoa học xã hội, HN

Phan Huy Lê (chủ biên), (1997), Cuộc sống nông thôn ở châu thổ sông Hồng, Nxb Thế giới, Hà Nội.

Đỗ Kim Liên (2006), Trường ngữ nghĩa về cây lúa và các sản phẩm từ lúa phản ánh đặc trưng văn hóa lúa nước trong tục ngữ người Việt, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 4 tr.34-39.

Nguyễn Trọng Lực (1949), Tiếng nói của đồng ruộng (hay là nghề nông Việt Nam qua ca dao, tục ngữ), Nxb Khoa học Xã hội.H

Hoàng Hữu Triết, (1973), Bước đầu tìm hiểu về khí tượng dân gian Việt Nam , Nxb Giáo dục, H, tr.5

Trần Quốc Vượng (2005), Môi trường con người và văn hoá, Nxb Văn hoá Thông tin, Hà Nội.

[1]  Hoàng Hữu Triết, (1973), Bước đầu tìm hiểu về khí tượng dân gian Việt Nam , Nxb Giáo dục, H, tr.5

Share this:

Ca Dao Tục Ngữ Về Con Trâu

 

Tuyển chọn những lời ca dao hay về TRÂU Thuyduongnsx tuyển chọn 1. Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu Tham vì ông lão tốt râu mà hiền 2. Chẳng tham ruộng cả ao liền Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ. 3. Trên đồng cạn dưới đồng sâu Chồng cầy vợ cấy con trâu đi nằm 4. Đường về đêm tối canh thâu Nhìn anh tôi tưởng con trâu đang cười 5. Thiệt tình hỏng phải ba hoa hôm qua tui thấy con gà đá trâu….. 6. Gà đá trâu bao lâu mới thắng Trâu đá gà que cẳng con trâu 7. Ai nói chăn trâu là khổ?? Tôi chăn nàng còn khổ hơn trâu. 8. Dù ai buôn đâu bán đâu, Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về. Dù ai buôn bán trăm nghề, Mồng mười tháng tám trở về chọi trâu. 9. Đêm qua kẻ trộm vào nhà, Làm thinh chợp mắt để mà mất trâu. Nằm đây chớ chẳng ngủ đâu, Thức mà giữ lấy con trâu con bò. Nằm đây nào đã ngủ cho, Thức mà giữ lấy con bò con trâu. 10. Nghé ơi ta bảo nghé này Nghé ăn cho béo nghé cày cho sâu. Ở đời khôn khéo chi đâu, Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần. 11. Chăn trâu chả biết mặt trâu Trâu về cầu Cậy biết đâu mà tìm. 12. Ầu ơ… Ví dầu ví dẫu ví dâu Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng 13. Tháng giêng là tháng ăn chơi, Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà Tháng ba thì đậu đã già Ta đi ta hái về nhà phơi khô Tháng tư đi tậu trâu bò Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm… 14. Trâu ơi ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. Cấy cày giữ nghiệp nông gia. Ta đây trâu đấy, ai mà quản công! Bao giờ cây lúa còn bông, thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”. “Con trâu là đầu cơ nghiệp 15. Trâu năm sáu tuổi còn nhanh, Bò năm sáu tuổi đã tranh về già, Đồng chiêm xin chớ nuôi bò, Mùa đông tháng giá, bò dò làm sao! 16. Trên trời có đám mây xanh (4) Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng Ước gì ta lấy được nàng Hà Nội, Nam Ðịnh sửa đàng rước dâu Thanh Hóa cung đốn trầu cau Nghệ An thì phải thui trâu mổ bò Phú Thọ quạt nước hỏa lò Hải Dương rọc lá giã giò gói nem Tuyên Quang nấu bạc đúc tiền Ninh Bình dao thớt Quảng Yên đúc nồi An Giang gánh đá nung vôi Thừ Thiên Đà nẵng thổi xôi nấu chè Quảng Bình Hà Tĩnh thuyề ghe Đồng Nai Gia Dịnh chẻ tre bắc cầu Anh mời khắp nước chư hầu Nước Tây nước Tàu anh gởi thư sang Nam Tào Bắc đẩu dọn đàng Thiên Lôi La Sát hai hàng hai bên 17. Trời mưa trời gió đùng đùng Bố con ông Nùng đi gánh phân trâu Gánh về trồng bí trồng bàu Trồng ngô, trồng lúa, trồng rau, trồng cà. 18. Nam mô Bồ Tát Chẻ lạt đứt tay Đi cày trâu húc Đi súc phải cọc Đi học thày đánh Đi gánh đau vai Nằm dài nhịn đói 19. Nước giữa dòng chê trong, chê đục Vũng trâu đầm hì hục khen ngon 20. Đời vua Thái Tổ – Thái Tông Lúa mọc đầy đồng trâu chẳng buồn ăn. 21. Thất là mất Tồn là còn Tử là con Tôn là cháu Lục là sáu Tam là ba Gia là nhà Quốc là nước Tiền là trước Hậu là sau Ngưu là trâu Mã là ngựa 22. Trai thì cày ruộng khiển trâu Gái thì phải biết bổ cau têm trầu 23. Trăm năm còn có gì đâu Miếng trầu liền với con trâu một vần 24. Trâu bò được ngày phá đỗ Con cháu được ngày giỗ ông 25. Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết 26. Trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm 27. Trâu kia kén cỏ bờ ao Anh kia không vợ đời nào có con Người ta con trước, con sau Thân anh không vợ như cau không buồng Cau không buồng như tuồng cau đực Trai không vợ cực lắm anh ơi Người ta đi đón, về đôi Thân anh đi lẻ, về loi một mình 28. Của chua ai nấy cũng thèm Em cho chị mượn chồng em vài ngày Chồng em đâu phải trâu cày Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm 29. Dầu bông bưởi, dầu bông lài Xức vô tới Tết còn hoài mùi cứt trâu 30. Dù ai buôn bán nơi đâu Mồng Mười, tháng Tám chọi trâu thì về 31. Ðàn đâu mà gảy tai trâu Ðạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi 32. Thương nhau vì nợ vì duyên Trâu đôi chi đó, thổ điền chi đây 33. Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần Làm thân con nhện mấy lần vương tơ Về đâu trong đục mà chờ Hoa thơm mất tuyết , nương nhờ vào đâu Số em giàu, lấy khó cũng giàu Số em nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo Phải duyên phải kiếp thì theo Giàu ăn khó chịu, lo gì mà lo 34. Chẳng qua số phận long đong Cột trâu, trâu đứt, cột tròng, tròng trôi. 35. Lao xao gà gáy rạng ngày Vai vác cái cày, tay dắt con trâu. Bước chân xuống cánh đồng sâu Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày. Ai ơi! bưng bát cơm đầy Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng Câu đố: – Bốn ông đập đất, một ông phất cờ, Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân. = con trâu – Vừa bằng cái bát, san sát giữa đồng = vết chân Trâu 36. Ru Con Bao giờ cho đến tháng ba, Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng. Hùm nằm cho lợn liếm lông, Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi. Nắm xôi nuốt trẻ lên mười; Con gà, be rượu nuốt người lao đao. Lươn nằm cho trúm (1) bò vào; Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô. Lúa mạ nhảy lên ăn bò; Cỏ năn (2), cỏ lác (3) rình mò bắt trâu. Gà con đuổi bắt diều hâu; Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông. Chú thích: (1) Trúm : một thứ đó để bắt lươn (2) Cỏ năn : một loài cỏ mọc dưới nước (3) cỏ lác : thứ cỏ xấu 37. Thứ nhất vợ dại trong nhà, Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn. Vợ dại thì đẻ con khôn, Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm. 38. Trâu chậm thời anh bán đi, Dao cùn đánh lại vợ thì làm sao. 39. Trâu anh con cưỡi con dòng, Có con đi trước lòng thòng theo sau. 40. Trâu anh con cưỡi con dòng, Lại thêm con nghé cực lòng thằng chăn. 41. Trâu buộc thì ghét trâu ăn, Quan võ thì ghét quan văn dài quần. 42.Trâu kia kén cỏ bờ ao, Anh kia không vợ đời nào có con. 43.Trâu khoẻ chẳng lọ cày trưa, Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền. 44. Trâu năm sáu tuổi còn nhanh, Bò năm sáu tuổi đã tranh cõi già. Đồng chiêm xin chớ nuôi bò, Mùa đông tháng giá bò dò làm sao? 45. Em như ngọn cỏ phất phơ Anh như con nghé nhởn nhơ giữa đồng 46. Mình rằng mình quyết lấy ta Ðể ta hẹn cưới hăm ba tháng này Hăm ba nay đã đến ngày Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng Tháng giêng năm mới chưa nên Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai Tháng hai có đỗ có khoai Ta lại vật nài cho đến tháng tư Tháng tư ngày chẳn tháng dư Ta lại chần chừ cho đến tháng năm Tháng năm là tháng trâu đầm Ta hẹn mình rằng tháng sáu mình lên Tháng sáu lo chửa kịp tiền Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu Tháng bảy là tháng mưa ngâu Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu Tháng tám là tháng trăng thu Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi Tháng chín là tháng mưa rươi Bước sang tháng mười đã đãi mưa đông Quanh đi quẩn lại em đã có chồng Như chim trong lồng, như cá cắn câu 47. Ông Giăng mà lấy bà Sao, Đến mai có cưới cho tao miếng giầu. Có cưới thì cưới con trâu, Chớ cưới con nghé nàng dâu không về. 48. Ông giẳng ông giăng, Xuống chơi với tôi, Có bầu có bạn, Có ván cơm xôi, Có nồi cơm nếp, Có nệp bánh chưng, Có lưng hũ rượu, Có chiếu bám đu, Thằng cu xí-xóa, Bắt trai bỏ giỏ, Cái đỏ ẵm em, Đi xem đánh cá, Có rá vo gạo, Có gáo múc nước, Có lược chải đầu, Có trâu cày ruộng, Có muống thả ao, Ông sao trên trời. (Cái này thấy gọi là Ca dao nhi đồng, hihi) 49.Bước sang tháng sáu giá chân, Tháng một nằm trần bức đổ mồ hôi. Con chuột kéo cầy lồi lồi, Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong. Vườn rộng thì thả rau rong. Ao sâu giữa đồng, vãi cải làm dưa. Đàn bò đi tắm đến trưa, Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương. Voi kia nằm ở gặm giường, Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn. Chuồn kia thấy cám liền ăn, Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua. Trời mưa cho mối bắt gà, Thòng-đong cân-cấn đuổi cò lao xao. Lươn nằm cho trúm bò vào, Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô. Thóc giống cắn chuột trong bồ, Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu. Chim chích cắn cổ diều hâu, Gà con tha quạ biết đâu mà tìm. Bong bóng thì chìm, gỗ lim thì nổi. Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai. Hòn đá giẻo dai, hòn xôi rắn chắc. Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi. Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú. Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu. Hay cắn thì trâu, hay cày thì chó. 50. Nam mô bồ tát, Chẻ lạt đứt tay, Đi cày trâu húc, Đi xúc phải cọc, Đi học thầy đánh, Đi gánh đau vai, Nằm dài nhịn đói. 51. Con kiến mày kiện củ khoai, Mày chê tao khó lấy ai cho giầu. Nhà tao chín đụn mười trâu, Lại thêm ao cá bắt cầu rửa chân. 52. Công anh chăn nghé đã lâu Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày?  

53. Cưới em có cánh con gà, Có dăm sợi bún, có và hạt xôi. Cưới em còn nữa anh ơi! Có một đĩa đậu hai môi rau cần. Có xa dịch lại cho gần, Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi. Hay là nặng lắm anh ơi! Để em bớt lại một môi rau cần. Cưới nàng anh toan dẫn voi, Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn. Dẫn trâu sợ họ máu hàn, Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân. Miễn là có thú bốn chân, Dẫn con chuột béo mời dân mời làng. – Chàng dẫn thế em lấy làm sang Nỡ nào em lại phá ngang như là… Người ta thách lợn thách gà, Nhà em thách cưới một nhà khoai lang Củ to thì để mời làng, Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi. Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi! Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà. Bao nhiêu củ rím củ hà, Để cho con lợn con gà nó ăn. 54. Ầu ơ… Ví dầu ví dẫu ví dâu Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng 55. Anh về bán ruộng cây da Bán cặp trâu già, mới cưới đặng em 56. 17. Hò ơ.. (chớ) Bớ này anh nó ơi Số phận em giao phó cho trời xanh Lấy anh em không lấy, Nhưng dạ cũng không đành làm ngơ Vốn em cũng chẳng bơ thờ Em đã hằng chọn trong lóng đục, Nhưng vẫn còn chờ nợ duyên Vốn em muốn lấy ông thầy thuốc cho giàu sang, Nhưng lại sợ ổng hay gia hay giảm Em muốn lấy ông thầy pháp cho đảm, Nhưng lại sợ ổng hét la ghê gốc Em muốn lấy chú thợ mộc, Nhưng lại sợ chú hay đục khoét rầy rà Em muốn lấy anh thợ cưa cho thật thà, Nhưng lại sợ trên tàn dưới mạt Em muốn lấy người hạ bạc, Nhưng lại sợ mang lưới mang chài Em muốn lấy anh cuốc đất trồng khoai, Nhưng lại sợ ảnh hay đào hay bới Em cũng muốn chọn anh thợ rèn kết ngỡi, Nhưng lại sợ ảnh nói tức nói êm Bằng lấy anh đặt rượu làm men, Thì lại sợ ảnh hay cà riềng cà tỏi Em muốn lấy ông nhạc công cho giỏi, Nhưng lại sợ giọng quyển giọng kèn Em muốn lấy thằng chăn trâu cho hèn, Nhưng lại sợ nhiều điều thá ví Em muốn lấy anh lái buôn thành thị, Nhưng lại sợ ảnh kêu mắc rẻ khó lòng Em muốn lấy anh thợ đóng thùng, Nhưng lại sợ ảnh kêu trật niền trật ngổng Em muốn lấy ông Hương ông Tổng, Nhưng lại sợ việc trống việc gông Em muốn lấy anh hàng gánh tay không, Nhưng lại sợ đầu treo đầu quảy Em muốn lấy chú hàng heo khi nãy, Nhưng lại sợ chú làm lộn ruột lộn gan Em muốn lấy anh thợ đát thợ đan, Nhưng lại sợ ảnh hay bắt phải bắt lỗi Em muốn lấy anh hát bè hát bội, Nhưng lại sợ giọng rỗi giọng tuồng Em muốn lấy anh thợ đóng xuồng, Nhưng lại sợ ảnh hay dằn hay thúc… Hò ơ.. (chớ) Mấy lời trong đục chẳng dám nói ra Có thầy giáo tập dạy trong làng xa, hay dạy hay răn So đức hạnh chẳng ai bằng, lại con nhà nho học Sử kinh thầy thường đọc, nên biết việc thánh hiền Gặp nhau em kết liền, không chờ chẳng đợi… (ờ) Hò ơ.. (chớ) Không chẳng chờ chẳng đợi phỉ nguyền phụng loan 57. Hút sách là chuyện chẳng lành Trâu bò vườn ruộng hoá thành khói mây  

58. Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà Cả ba việc ấy đều là khó thay. 59. Mười năm cắp sách theo thày Năm thứ mười một vác cày theo trâu. 60. Bốn ông đập đất, một ông phất cờ, Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân. 61.Ai cũng gặt lúa đỏ đuôi Chàng về mà đập, mà phơi kịp ngày Ai mà giã gạo ba chày Giã sao cho trắng, gửi ngay cho chàng Sẵn tiền mua bạc mua vàng Sẵn tiền sắm áo cho chàng trẩy kinh Sáng trời chàng mới tập binh Em ngồi vò võ, một mình em lo Ruộng nương không ai cày cho Trâu bò, gà, lợn em lo dường nào! Ruộng người cày cấy xôn xao Ruộng nhà cỏ mọc lên cao lồng ngồng Người ta có vợ có chồng Cỏ cao, mạ úa nhưng lòng vẫn vui Nhà ta chỉ có em thôi Ruộng cạn mạ úa em ngồi em lo 62.Ai ơi uống rượu thì say Bỏ ruộng trâu cày bỏ giống ai gieo. 63.Anh đánh thì tôi chịu đòn Tánh tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa Anh đánh thì tôi xin thưa Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu Ăn quen chừa được chẳng lâu Lệ làng làng bắt mất trâu mặc làng 64.Ba vợ bảy tám nàng hầu Đêm nằm chuồng trâu, gối đầu bằng chổi. 65.Ăn thuốc bán trâu ăn trầu bán ruộng 66.Anh em bất nghĩa chi khèo Anh dữ như mèo tôi lại như trâu 67.Bé ăn trộm gà Già ăn trộm trâu Lâu nữa làm giặc 68.Cầm trâu cầm áo cầm khăn Cầm dây lưng lụa, xin đừng cầm em ! 69.Cái bống mặc xống ngang chân Lấy chồng Kẻ Chợ cho gần, xem voi Trèo lên trái núi mà coi Thấy ông quản tượng cõi voi đánh cồng Túi vóc mà thêu chỉ hồng Têm trầu cánh phượng cho chồng đi thi Một mai chồng đỗ, vinh quy Võng anh đi trước, em thì võng sau Tàn quạt, hương án theo hầu Vinh quy bái tổ, giết trâu ăn mừng! 70.Cái kiến mà kiện củ khoai Mày chê tao khó, lấy ai cho giầu Nhà tao chín đụn mười trâu Lại thêm ao cá, bắc cầu rửa chân Cầu nầy là cầu ái ân Một trăm con gái rửa chân cầu nầy Có rửa thì rửa chân tay Chớ rửa lông mày chết cá ao anh Nhà anh có một cây chanh Nó chửa ra nhành nó đã ra hoa Nhà anh có một mụ già Thổi cơm không chín, quét nhà chẳng nên Ăn cỗ khì đòi ngồi trên Mâm son bát sứ đem lên hầu bà. 71.Bong bóng thì chìm gỗ lim thì nổi Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai Hòn đá dẻo dai, hòn xôi rắn chắc Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu Hay sủa thì trâu, hay cày thì chó… (hình như vẫn còn tiếp thì phải) 72.Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu Tham vì ông lão tốt râu mà hiền Chẳng tham ruộng cả ao liền Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ. Chẳng tham nhà ngói ba tòa Tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành. 73.Chồng dữ thì em mới rầu Mẹ chồng mà dữ giết trâu ăn mừng 74.Chùn đùi, thắt quản, ngắn đuôi Sừng to móng hến thì nuôi đúng rồi 75.Cao đầu thấp hậu thì tậu liền tay 76.Cao vây, nhỏ sống thì rộng đường cày 77.Chết lỗ chân trâu 78.Có ăn có chọi mới gọi là trâu 79.Có xa dịch lại cho gần Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi Hay là nặng lắm anh ơi! Để em bớt lại một môi rau cần. Cưới nàng anh toan dẫn voi Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn. Dẫn trâu sợ họ máu hàn Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân. Miễn là có thú bốn chân Dẫn con chuột béo mời dân mời làng. 80.Con cá rô thia ẩn bóng chân trâu Một trăm quân tử tới câu cũng chẳng màng.

81.Con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu 82.Con tằm nó ăn lá dâu Có khi ăn mất cả trâu lẫn bò 83.Con vợ khôn lấy thằng chồng dại Như bông hoa lài cặm bãi cứt trâu 84.Công anh chăn nghé đã lâu Bây giờ nghé lớn thành trâu ai cày 85.Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi 86.Em thì canh cửi việc nhà Nuôi anh ăn học đăng khoa bảng vàng Trước là vinh hiển tổ đường Bõ công đèn sách lưu hương con nhà Rước vinh quy về nhà bái tổ Ngả trâu bò làm lễ tế vua Họ hàng ăn uống say sưa Hàng Tổng hàng Huyện mừng cho ông Nghè 87.Dưa gang một chạp thì trồng Chiêm cấy trước tết thì lòng đỡ lo Tháng hai đi tậu trâu bò cày đất cho ải mạ mùa ta gieo 88.Được voi to trâu bò chẳng kể Hoa lan hoa huệ mới kể là hoa Một lời đã trót nói ra Dẫu cho bốn ngựa khó mà đuổi theo 89.Em là con gái nhà giàu Mẹ cha thách cưới ra màu sinh sao Cưới em trăm tấm gấm đào Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng Sắm xe tứ mã đem sang Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu Ba trăm nón Nghệ đội đầu Một người một cái quạt Tàu thật xinh Anh về sắm nhiễu Nghi Ðình May chăn cho rộng ta mình đắp chung Cưới em chín chĩnh mật ong Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò Cưới em tám vạn trâu bò Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm Lá đa mặt nguyệt hôm rằm Răng nanh thằng Cuội, râu hàm Thiên Lôi Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi Xin chàng chín chục con dơi góa chồng Thách thế mới thỏa trong lòng Chàng mà lo được thiếp cùng theo chân 90.Gió nam ào ạt gốc cây nằm mát Chẻ lạt đứt tay, đi cày trâu húc Đi xúc phải cọc, đi học thầy đánh Đi gánh đau vai, nằm dài nhịn đói

91. Vợ bé nghé con Sẩy đàn tan nghé Hòn đá cheo leo, Con trâu trèo, con trâu trợn Con ngựa trèo, con ngựa đổ. Anh thương em lao khổ Tận cổ chí kim, Anh thương em khó kiếm khôn tìm. Cây kim luồn qua sợi chỉ, Sự bất đắc dĩ phu mới lìa thê, Nên hay không nên, anh ở em về, Đừng giao, đừng kết, đừng thề mà vương. 92.Lạc đường nắm đuôi chó Lạc ngõ nắm đuôi trâu 93.Lao xao gà gáy rạng ngày Vai vác cái cày, tay dắt con trâu. Bước chân xuống cánh đồng sâu Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày Ai ơi! bưng bát cơm đầy Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng? 94.Làm ruộng có trâu làm giầu có vợ Làm ruộng có trâu làm dâu có chồng Một huyền hai lái chẳng xong Một chĩnh hai gáo đừng nong tay vào 95.Lộn con toán bán con trâu 96.Mật ngọt rớt xuống thau đồng Những lời anh nói cho lòng em say Một trâu anh sắm đôi cày Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia! Chàng ơi! chàng cho em ra Nhẽ đâu một ổ đôi gà ấp chung. 97.Một rằng mình quyết lấy ta Ta về bán cửa bán nhà mà đi Ta về bán núi Ba Vì Bán chùa Hương Tích, Phật đi làu làu Ta về bán hết ngựa trâu Bán hột thầu dầu, bán trứng gà ung Bán ba mươi sáu Thổ công Bán ông Hành Khiển, vợ chồng Táo Quân Bán từ giờ Ngọ giờ Dần Giờ Tí giờ Sửu giờ Thân giờ Mùi Ta về bán cả que cời Bán tro đun bếp bán trăm khêu đèn Ta về bán trống bán kèn Có gì bán hết, lấy tiền cưới em 98.Nghé hành nghé hẹ Có khôn theo mẹ Có khéo theo đàn Chớ có chạy quàng Có ngày lạc mẹ Việc nhẹ phần con Kéo nỉ kéo non Kéo đến quanh tròn Mẹ con ta nghỉ 99.Trăm năm cơ hội tình cờ, Đàn cầm anh gãy, câu thơ anh đề. Muốn cho thuận nẻo đi về, Anh sang làm rể, em về làm dâu. Số giàu lấy khổ cũng giàu, Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo. Phải duyên phải kiếp thì theo, Khuyên em chớ nghĩ giàu nghèo làm chi. Em ơi! chữ vị là vì, Chữ dục là muốn, chữ tùy là theo, Ta đã yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, Thất bát giang cũng lội, tam thập đèo cũng qua. 100.Trời mưa lâm râm Cây trâm có trái Con gái có duyên Đồng tiền có lỗ Bánh tổ thì ngon Bánh dòn thì béo Cái kéo thợ may Cái cày làm ruộng Cái xuổng đắp bờ Cái lờ đơm cá Cái ná bắn chim Cái kim may áo Cái giáo đi săn Cái khăn bịt đầu Cái cầu đi chợ Có vợ đàn ông Có chồng con gái Cái trái mù u Ông cu đi câu Để trâu ăn lúa Bắt được chặt đầu, chặt đầu đuôi Còn hai con mắt đem nuôi mẹ già

Tướng Trâu

Cầm trâu cầm áo cầm khăn Cầm dây lưng lụa, xin đừng cầm em ! Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi Chồng em đâu phải trâu cày Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm Trâu gầy cũng tầy bò giống Ghi Chú: * Trâu gầy vẫn mạnh hơn bò Mắt bánh rán, Trán bánh chưng Lưng tôm càng Ghi Chú: * Trâu có mắt lớn, cái trán vuông vức như cái bánh chưng và lưng không oằn là trâu khỏe mạnh Đã có sừng thì đừng hàm trên Ghi Chú: * Trâu không có răng hàm trên Tai lá mít đít lồng bàn Ghi Chú: * Trâu có tai lớn và mông bự là trâu tốt Vành mồm trắng, mắt tai to Hễ thưa lông bụng, móng hài cũng mua Ghi Chú: * Trâu thưa lông bụng và vành mồm trắng mới là trâu có tướng tốt Sà sừng mắt lại nhỏ con Vụng giàn chậm chạp ai còn nuôi chi Ghi Chú: * Trâu có cặp sừng sệ xuống và mắt nhỏ thì chậm chạp

Vai nồi đồng, mông cối lỗ Ghi Chú: * Vai to tròn, mông lớn là trâu tốt Sừng to móng hến thì nuôi phải rồi Ghi Chú: * Trâu có sừng to, mở Rộng là trâu đắc dụng Tam tinh khoáy sọ thì chừa Đốm đuôi nát chủ thì đưa vào nồi Ghi Chú: * Trâu có khoáy sọ và đuôi có đốm là trâu độc dễ gây tai họa nên giết thịt Làm ruộng có trâu làm giầu có vợ Làm ruộng có trâu làm dâu có chồng Một huyền hai lái chẳng xong Một chĩnh hai gáo đừng nong tay vào Lúa Đồng Ngâu, trâu Yên Mỹ Mất trâu mất ruộng không màng Mất cây cuốc mục ra làng kiện thưa Mất trâu thì lại tậu trâu Những quân cướp nợ có (chẳng) giầu hơn ai ? Một trâu anh sắm đôi cày Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia Chàng ôi! chàng cho em ra Nhẽ đâu một ổ hai gà ấp chung ? Một trâu anh sắm hai cày Một chàng hai thiếp có ngày oan giạ Chả yêu thì bỏ nhau ra Làm chi một ổ hai gà ấp chung. Yếu trâu cũng bằng bò khỏe Con trâu ăn cỏ đất bằng Uống nước bờ ao Hồi nào mầy ở với tao Đến khi mầy chết Tao cầm dao xẻo thịt mầy Thịt mầy nấu cháo linh binh Da mầy bịt trống tụng kinh trong chùa Sừng mầy tao tiện con cờ Cán dao, cán mác, lược dầy lược thưa Mua trâu cưới vợ làm nhà Cả ba việc ấy đều là khó thay Muốn giầu nuôi trâu nái Muốn lụi bại nuôi chim bồ câu. Ngày xưa Ninh Thích chăn trâu Mà rồi công ấn công hầu trâu ơi ! Ngày nay mình nghé ta ngồi Mai sau ta có một thời hiển vinh ? Trâu he cũng bằng bò khỏe Ghi Chú: * Trâu he là trâu nghé hay trâu còn non Lang đuôi thì bán, lang trán thì cày Ghi Chú: * Trâu có hoa trên trán thì giữ để cày ngược lại đuôi có hoa thì đem bán Phù thủy, thầy bói, lái trâu Nghe ba anh ấy đầu lâu không còn Trâu ác vạc sừng Ghi Chú: * Trâu ác hay mài sừng để chiến đấu Tậu trâu lấy vợ làm nhà Trong ba việc ấy lọ là khó thay Ruồi lằn chọi với bò trâu Đàn gà quật với diều hâu mấy lần Thật thà cũng thể lái trâu Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng Trâu tóc chóp, bò mũ mấn Ghi Chú: * Trâu có tóc chóp thì tốt, ngược lại bò có tóc chóp thì xui xẻo Trâu ra, mạ vào Ghi Chú: * Cần cấy ngay sau khi cày ruộng xong Trâu kia (già) kén (cắn) (ăn) cỏ bờ ao Anh kia không vợ đời nào có con Người ta con trước, con sau Thân anh không vợ như cau không buồng Cau không buồng như tuồng cau đực Trai (Anh) không vợ cực lắm anh ơi Người ta đi đón, về đôi Thân anh đi lẻ, về loi một mình Trâu năm sáu tuổi còn nhanh Bò năm sáu tuổi đã tranh về già Trâu ơi ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta Cấy cày vốn nghiệp nông gia Hai sương một nang)Tắ đây trâu đấy ai mà quản công Bao giờ cây lúa còn bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn Trâu ai buộc ngõ ông Cai Hoãn ai mà lại đeo tai bà Nghè Ngựa ai buộc ngõ ông Nghè Gà ai gáy ở đầu hè ông Cai Ghi Chú: * Nghè là người đỗ tiến sĩ thời xưa; Hoãn là đôi bông tai Trâu bò ở với nhau lâu quen chuồng quen chỏi Người ở với nhau lâu, inh ỏi đủ điều Trâu buộc thì ghét trâu ăn Quan võ thì ghét quan văn dài quần Trai thì cày ruộng khiển trâu Gái thì phải biết bổ cau têm trầu Ghi Chú: * Tục ăn trầu có ở hầu hết các nước Đông Nam Á; Xem: Trầu Cau Trong Ca Dao Trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta (*) Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm Ghi Chú: * Hoặc: Trâu ta ăn cỏ đồng ta Trâu khoẻ chẳng lo cày trưa Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền. Trâu kia chết để bộ da Người chết để tiếng xấu xa muôn đời Cao vây, dậy tiền, sâu vai, khai hậu Ghi Chú: * Hai chân sau mở rộng gọi là khai hậu Sừng cánh cắt, mắt ông voi Ghi Chú: * Cặp sừng to lớn như cánh chim cắt là trâu tốt Ăn thịt trâu không tỏi Như ăn gỏi không rau mơ Trâu quá sá, mạ quá thì Ghi Chú: * Quá sá là quá già, không còn khả năng để cày cấy Trâu dê chết để tế ruồi Sao bằng khi sống cơi suồi kính dâng Lại thêm tiền thấp hậu cao Ghi Chú: * Hai vai trước thấp mà mông cao, con trâu đi chúi là khôphải trâu tốt Cao vây, nhỏ sống thì rộng đường cày Ghi Chú: * Sống lưng phải vừa phải nhưng nổi cao thì trâu cày khỏe Đầu thanh cao, rào thấp hậu Chẳng tậu thì sao Được voi to trâu bò chẳng kể Hoa lan hoa huệ mới kể là hoa Một lời đã trót nói ra Dẫu cho bốn ngựa khó mà đuổi theo (*) Ghi Chú: * Nguyên thủy: Nhất ký ngôn xuất tứ mãi nan truy Ăn thuốc bán trâu ăn trầu bán ruộng Trăm trâu trăm bó cỏ Trâu đứng ăn năm Trâu nằm ăn ba Nghé hoa ba con ăn một (*) Ghi Chú: * Câu đố toán học – Có bản khác: Con ở đàng xa một bó ba con Chưa được thì khấn một trâu Được rồi thì có trâu đâu cho bà Anh có sừng trâu bạc Tôi có gạc (có giác) trâu đen Bụng trâu làm sao bụng bò làm vậy Buộc trâu trưa nát chuồng Ăn thịt trâu không có tỏi Như ăn gỏi không có lá mơ Béo như trâu chương Đầu trâu mặt ngựa Chăn trâu chả biết mặt trâu Trâu về cầu Cậy biết đâu mà tìm. Chị bị cứt trâu Chị em dâu nấu đầu trâu thủng nồi Chết đuối vũng trâu đằm Anh Ngữ Tương đương: * To cut one’s throat with feather OR An unfortunate man would be drowned in a tea cup) Chết lỗ chân trâu Tương Đương với Anh Ngữ : To cut one’s throat with feather OR An unfortunate man would be drowned in a tea cup Đàn gảy tai trâu (Đàn khảy tai trâu) Đầu nheo còn hơn phèo trâu Đến đâu chết trâu đến đấy Đi sông đi biển không chết chết ở lỗ chân trâu Làm cực như trâu Tương Đương với Anh Ngữ : To work as hard as a horse Chín đụn mười trâu chết cũng hai tay buông xuôi (cắp đít) Tương Đương với Anh Ngữ : A handfull of ashes is all than remains of the greatest. OR: It will all be the same a hundred years hence Có ăn có chọi mới gọi là trâu Gái mười bảy bẻ găy sừng trâu Con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu Con trâu là đầu cơ nghiệp Cống làng Tô trâu bò làng Hệ Dắt trâu chui qua ống Đi cày trâu hút đi xúc phải cọc Trâu thì kho bò thì tái Muống thì vừa cải thì nhừ Đuôi chùng quá gối thì nào được đâu! Ghi Chú: * Trâu có đuôi dài quá cũng không đắc dụng Thứ nhất bó rễ, thứ nhì trễ cành Trâu cổ cò, bò cổ vại Ghi Chú: * Trâu phải có cổ dài, cổ bò lớn và ngắn thì tốt Giờ trâu về chuồng Hùng hục như trâu hút mả Hùng hục như trâu lăn Kẻ trâu trắng người trâu đen Khấn trâu trả lễ bò Khỏe như trâu Không có trâu bắt bò đi đẩm Làm kiếp trâu ăn cỏ làm kiếp chó ăn dơ Làm kiếp trâu kéo cày trả nợ Lấm như trâu đầm Lắm rận thì giàu lắm trâu thì nghèo Làm rể chớ xào thịt trâu làm dâu chớ đồ xôi lại Làm ruộng không trâu làm giàu không thóc Lắm ruộng thì thâu lắm trâu thì bán Làm thân trâu kéo cày trả nợ Làm thân trâu ngựa Lâu ngày cứt trâu hóa bùn Lộn con toán bán con trâu (cả nhà) Lộn thừng lộn chão quá hơn lộn trâu cày Lòng trâu dạ chó Máu đâu trâu đó Máu trâu cũng như máu bò Nằm trâu thổi sáo Một con tằm cũng phải hái dâu một con trâu cũng phải đi chăn Mua trâu bán chả Mua trâu lựa nái cưới gái lựa dòng Mua trâu vẽ bóng Muốn giàu nuôi trâu cái Nai lưng trâu Nhịn thuốc mua trâu nhịn trầu mua ruộng Tương Đương với Anh Ngữ : Take care of the pence and the pounces will take care of themselves Phản chủ đầu trâu Ăn cơm nhà Phật, Ðốt trâu nhà chùa Phản chủ đầu trâu Ăn cơm nhà Phật Đốt trâu nhà chùa Ruộng sâu trâu nái Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng Thui trâu nửa mùa hết rơm Tham bong bóng bỏ bọng trâu Thật thà lái buôn (trâu) Vễnh sừng, tóc chớp cả nhà mang tai Ghi Chú: * Trâu loại nầy dữ, hay nổi khùng như trâu điên dễ gây tai vạ Sông Sâu (hoắm) không chết, chết vũng trâu đầm Tương Đương với Anh Ngữ : To cut one’s throat with feather OR An unfortunate man would be drowned in a tea cup Thà chết vũng trâu hơn chết khu đĩa đèn Trật con toán bán cái nhà (con trâu) Trâu béo kéo trâu gầy Trâu bò được ngày phá đỗ Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết Trâu buộc ghét trâu ăn Trâu cày ngựa cỡi (ngựa cưỡi) Trâu chậm uống nước đục (nước dơ) Trâu ngơ ăn cỏ héo Tương Đương với Anh Ngữ: He that comes first to the hill may sit where he will. OR: Delays are dangerous Trâu chết bò cũng lột da Trâu chết chẳng khỏi rơm Trâu chết để da người ta chết để tiếng Trâu chết mặc trâu bò chết mặc bò Củ tỏi giắt lưng Trâu cho ra trâu cho Bò bán ra bò bán Trâu cột ghét trâu ăn Trâu đạp cũng chết voi đạp cũng chết Trâu dong bò dắt Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy Trâu già đâu (không) nệ dao phay Trâu hay ác thì trâu vạt sừng Trâu ho cũng bằng bò khỏe Trâu lấm vẫy quàng Trâu lành (Trâu sống) không ai mà cả Trâu ngã nhiều gã cầm dao Trâu leo cày muỗm Trâu ngã lắm kẻ cầm dao Trâu nghiến hàm bò bạch thiệt Trâu ta ăn cỏ đồng ta Trâu teo heo nở Trâu thịt thì gầy trâu cày thì béo Trâu tìm cọc cọc chẳng tìm trâu Trâu tìm cột cột không tìm trâu Trâu toi thì bò ngã Trâu trắng đi đâu mất mùa tới đấy Trâu trắng trâu đen Đốm đầu thì nuôi, đốm đuôi thì thịt Thân trâu trâu lo thân bò bò liệu Tiếc thịt trâu toi Trai mười bảy bẻ gãy sừng trâu Trăm trâu cũng một công chăm Vác bổi thui trâu Ghi Chú: Ý nói không liệu sức mình; Tương đương với câu: Liệu cơm gắp mắm Vô một gà ra phải ba trâu Voi địt hơn trâu rống Khoáy sừng, khoáy sọ, khoáy tai Tam tinh, chằng ách làm tai chúa nhà Đầu gà còn hơn đuôi phượng (đuôi trâu) Tương Đương với Anh Ngữ : Better be the head of a dog than a tail of a lion Làm chủ một nơi còn hơn làm tôi tớ kẻ khác. Dùng dao mổ trâu (mổ bò) cắt tiết gà Tương Đương với Anh Ngữ : To use a steam hammer to crack nuts Xử dụng không đúng chỗ Chung nốt làm cầu, chung trâu làm trống Chỉ đường cho Mọi trộm trâu Trâu hoa tai, bò gai sừng Ghi Chú: Trâu có hoa tai cũng như bò có gai sừng là hai con vật không nên nuôi Thưa lông, mọng da, mõm giỏ Ghi Chú: * Trâu lông thưa, miệng rộng mõm dài, miệng như cái giỏ mới tốt Trâu nghiến hàm, bò bạch thiệt Ghi Chú: * Trâu nghiến hàm chặt lại là trâu xấu Hàm nghiến, lưỡi đốm hoa cà Vểnh sừng tóc chóp, cửa nhà mang tai Ghi Chú: * Lưỡi trâu có đốm hoa cà là trâu tốt Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi Mua trâu xem vó, mua chó xem chân Chùng đùi, thắt quản, ngắn đuôi Sừng to móng hến thì nuôi đúng rồi Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà Ghi Chú: * Châm biếm người lái máy cày phải được ăn sang, nông dân phải chịu tốn kém Trâu ác là trâu vạc sừng Bò ác là bò còng lưng méo sườn Lọ đầu thì bán Lọ trán thì nuôi Lọ đuôi thì thịt  

Post ngày: 10/05/17