Bạn yêu cầu đích danh tôi trả lời cho bạn thì đúng là “ép” người ta rồi! Dù sao cũng cảm ơn bạn đã tin tưởng.! A:>>Phạm trù là những khái niệm rộng nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung, cơ bản nhất của các sự vật và hiện tượng thuộc một lĩnh vực nhất định.Các phạm trù được hình thành bằng con đường khái quát hóa, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có bên trong của bản thân sự vật. Như vậy, với khái niệm trên chúng ta có thể lấy rất nhiều các ví dụ đặc trưng cho các cặp phạm trù. 1.Cái riêng và cái chung: Cái riêng là phạm trù chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình nhất định. Cái chung là phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác. Ví dụ: Mối con người (cái riêng) và xã hội (cái chung). Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Mỗi hoàn cảnh lịch sử có một xã hội khác nhau. Sự khác nhau đó là có thể nhận biết thông qua đời sống vật chất, tinh thần của mỗi con người, văn hóa sống… Xã hội phong kiến thì đời sống vật chất tinh thần của họ khác (sở hữu, văn hóa đối xử, phân phối sản phẩm, có quan lại, dân đen, bóc lột…). Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Mỗi con người của XH phong kiến chỉ tồn tại trong xã hội phong kiến, nếu lạc vào XHCN thì bỏ tù hoặc đem vào bệnh viện tâm thần ngay! Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung, cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Con người thì có nhiều người khác nhau, địa vị xã hội khác nhau, giới tính, chiều cao… nói chung là rất phong phú! XH là cái chung nhưng nó bộ phận, chỉ rõ ràng là XH phong kiến (XHCN, TBCN…) nhưng nó rất sâu sắc nói lên chúng ta hiểu được những đặc tính của nó. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật. Xã hội chủ nghĩa hay tư bản chủ nghĩa hay phong kiến là những cái đơn nhất của phạm trù xã hội. Cái đơn nhất là chỉ có ở một bộ phận nhưng khi nó phát triển rộng ra thì nó sẽ trở thành cái chung. Một người có tư tưởng tiên tiến, muốn có công bằng XH phát triển lên CNXH đó là cái đơn nhất (duy nhất một người) sau đó là có nhiều người…. và cuối cùng là toàn xã hội và lúc này cái đơn nhất trở thành cái chung. >> Bạn tự phân tích: Thể thao và Bóng đá, thực vật và cây hạt kín… 2.Nguyên nhân và kết quả. Ví dụ: Bạn hỏi là nguyên nhân, tôi trả lời là kết quả… Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó. Còn kết quả là phạm trù chỉ những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau gây ra. Mỗi liên hệ này phải mang tính khách quan, tính phổ biến, tính tất yếu. Mối liên hệ nhân quả có tính khách quan và tính phổ biến, nghĩa là không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Nhưng không phải con người có thể nhận thức ngay được mọi nguyên nhân. Nhiệm vụ của nhận thức khoa học là phải tìm ra nguyên nhân của những hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy để giải thích được những hiện tượng đó. Muốn tìm nguyên nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất chứ không được tưởng tượng ra từ trong đầu óc của con người, tách rời thế giới hiện thực. Một kết quả có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Những nguyên nhân này có vai 107 trò khác nhau đối với việc hình thành kết quả. Vì vậy trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phân loại các nguyên nhân, tìm ra nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu, nguyên nhân bên trong, nguyên nhân bên ngoài, nguyên nhân chủ quan, nguyên nhân khách quan… Đồng thời phải nắm được chiều hướng tác động của các nguyên nhân, từ đó có biện pháp thích hợp tạo điều kiện cho nguyên nhân có tác động tích cực đến hoạt động và hạn chế sự hoạt động của nguyên nhân có tác động tiêu cực. Tôi trả lời là kết quả nhưng có nhiều nguyên nhân khác nữa khiến tôi trả lời đó là tôi muốn ghi điểm ở yahoo hỏi đáp, tôi muốn gửi gắm vào các em SV những quan điểm sống, lối sống tích cực nè… nhưng nguyên nhân bạn hỏi là nguyên nhân chính! 3>> Tất nhiên và ngẫu nhiên (bạn xem câu trả lời của tôi về tất nhiên và ngẫu nhiên ở các câu hỏi đáp trước nhé! Phần còn lại hơi nhiều, bạn hỏi thêm câu tiếp đi mình trả lời tiếp)
Top 11 # Ca Dao Tục Ngữ Về 6 Cặp Phạm Trù Xem Nhiều Nhất, Mới Nhất 6/2023 # Top Trend
Tổng hợp các bài viết thuộc chủ đề Ca Dao Tục Ngữ Về 6 Cặp Phạm Trù xem nhiều nhất, được cập nhật mới nhất trên website Boxxyno.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung Ca Dao Tục Ngữ Về 6 Cặp Phạm Trù để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Tục Ngữ, Ca Dao Về Quan Hệ Gia Đình (Phạm Việt Long
Published on
Mời độc giả vào đọc Tạp chí điện tử Văn hiến Việt Nam với nhiều tư liệu về văn hoá nghệ thuật đáng quan tâm. Địa chỉ: vanhien.vn
1. Phạm Việt Long – 2012 Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình LỜI CẢM ƠN Tác giả xin chân thành cảm ơn giáo sư, tiến sĩ khoa học Phan Đăng Nhậtđã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ trong quá trình tác giả nghiên cứu, hoàn thànhcông trình này. Tác giả cũng chân thành cảm ơn các nhà khoa học đã đóng góp nhiều ýkiến quý báu giúp tác giả hoàn thiện công trình: – GS. TS Lê Chí Quế – PGS.TS Trần Đức Ngôn – GS. TS Nguyễn Xuân Kính – PGS.TS Vũ Anh Tuấn – PGS.TS Nguyễn Chí Bền – TS. Nguyễn Hữu Thức – TS. Nguyễn Thị Huế. Tác giả xin chân thành cảm ơn trường Đại học Khoa học xã hội và nhânvăn và Trung tâm Công nghệ thông tin (Văn phòng Bộ Văn hoá Thông tin, nay làBộ Văn hoá – Thể thao và Du lịch) đã giúp dỡ tận tình tác giả trong suốt quá trìnhnghiên cứu, công bố công trình này. Phạm Việt Long 1
2. Phạm Việt Long – 2012 Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình ĐIỀU TÂM ĐẮC VỀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VĂN HOÁ DÂN TỘC (Thay Lời giới thiệu) GS. TSKH. Phan Đăng Nhật Tôi không có dự định viết giới thiệu cuốn sách Tục ngữ ca dao về quan hệgia đình của TS. Phạm Việt Long. Vì thế e rằng sẽ nhắc lại trong vài trang, mộtcách sơ lược, thiếu thốn cả một cuốn sách hơn 300 trang và do vậy làm lãng phíthì giờ bạn đọc. Tôi chỉ dám phát biểu một điều tâm đắc: phương pháp tiếp cận văn hoá đểtìm ra bản sắc văn hoá dân tộc. Điều này do phạm vi đề tài hạn chế,- tục ngữ, cadao về quan hệ gia đình,- nên tác giả không có điều kiện trình bày đầy đủ và trựcdiện. Nhưng chính những phương pháp tiếp cận này, một mặt đem đến nhữngphát hiện mới mà có sức thuyết phục trong phạm vi đề tài của mình; mặt khác gợimở cho việc tìm hiểu bản sắc văn hoá nói chung. * 1.Từ lâu một số nhà khoa học trong và ngoài nước với mức độ khác nhau vàbiểu hiện khác nhau, đã phủ định bản sắc văn hoá dân tộc Việt Nam. Tiêu biểucho xu hướng này là “Bài tổng kết của trường Viễn đông Bác cổ Pháp từ buổiđầu cho đến năm 1920”: “Ấn Độ – Chi na (là tên gọi các nước Đông Dương,trong đó có Việt Nam, do người Pháp dùng, tiếng Pháp là Indochine là từ ghéptên hai nước Ấn Độ và Trung Hoa- P.Đ.N), là khu vực ở Châu Á mà hai nền vănminh lớn của bộ phận này của thế giới, văn minh Ấn Độ và văn minh Trung Hoa,đụng độ với nhau và ít nhiều hoà lẫn vào nhau và là nơi mà các chủng tộc cư trúở lục địa và hải đảo ở phía đông châu Á kéo đến pha trộn vào nhau. Cho nênngười ta không thể thấy ở đấy, như ở nước Trung Hoa hay ở nướcẤn Độ củangười Arirăng (Aryen), một chủng tộc riêng biệt và một nền văn minh độc đáoxứng đáng được tìm hiểu vì bản thân chúng, một chủng tộc và một nền văn minhchỉ nhờ vả rất ít vào ảnh hưởng bên ngoài, mà hoàn toàn ngược lại chỉ thấy ở đósự pha trộn khác thường nhất của các nền văn minh và các chủng tộc linh tinh(P.Đ.N.nhấn mạnh), không một nền văn minh nào- hình như thế lại có nguồn gốchoặc trung tâm ở đấy, ngay tại bản thân Ấn Độ- Chi na”1 Phân tích trên đây của bản tổng kết trang trọng này có mấy điểm chính: – Các nước Đông Dương(trong đó có Việt Nam ), không có nền văn hoá vănminh. Những lý do trên, không đáng nghiên cứu các nền văn hoá ở đây.1 Trường Viễn đông bác cổ Pháp từ buổi đầu cho đến 1920,
3. Phạm Việt Long – 2012 Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình Lời kết án trên là của cơ quan học thuật có quyền lực nhất đương thời củangười Pháp, đã xoá sạch bản sắc văn hoá Việt Nam và các nước lân cận. Đươngthời nó ảnh hưởng sâu sắc đối với thế giới và cả một số người Việt. Về sau, dần dần quan niệm trên đây được điều chỉnh từng bước. Một sốhọc giả Phương Tây nhận thấy văn hoá “các cư dân của bán đảo Đông Dương”không phải là một sự pha trộn linh tinh nữa mà có thể nhận diện được và họ goịlà “Các quốc gia Ấn độ hoá” (G.Coedes). Có người còn khái quát được bản chấtvăn hoá của vùng này, hơn nữa còn chỉ ra rằng một số triết lý của Trung Hoa đãđược tổng kết từ thực tế của văn hoá phương Nam như lý thuyết về âm dương(Eveline Porée Maspéro). Nếu chỉ có thế thì không cần nhắc lại ở đây, cái gì hoàn toàn thuộc về lịchsử trả về cho quá khứ. Nhưng không như vậy, gần đây, (1972), Arnold Toynbee,mặc dầu đã công nhận Việt Nam có một nền văn minh riêng nhưng là sự “môphỏng văn minh Trung Hoa”, là “nền văn minh riêng văn minh Trung Quốc.Leon Vandermeeersch (1986) coi văn minh Việt Nam (cũng như Triều Tiên,Nhật Bản) là “văn minh Trung Hoa hoá”, nói cách khác là sự đồng hoá theo vănminh Trung Hoa.2 Về bản chất trên đây là tư tưởng trung tâm văn minh nước lớn, đến thời kỳhậu thực dân, nó không còn tính chất miệt thị nước nhỏ của chủ nghĩa thực dâncũ nữa, nhưng có nhiều biến dạng, mà thế giới vẫn đang còn tiếp tục tranh luậnvới chúng: nếu ở thế giới, đó là chủ nghĩa trung tâm Âu châu, được gọi làeurocentrisme, européocentrisme, thì ở châu Á là chủ nghĩa trung tâm TrungHoa, có thể tạm gọi la sinocentrisme. Ở trên có nhắc đến tư tưởng trung tâm Trung Hoa của thời kỳ hậu thực dâncủa một số tác giả nước ngoài, riêng ở Việt Nam tư tưởng đó vẫn tồn tại không ít. Trong bối cảnh như vậy tác phẩm của Phạm Việt Long xử lý vấn đề nhưthế nào? 2. Tục ngữ ca dao về quan hệ gia đình tự giới hạn trong một phạm vi nhỏcủa văn hoá, quan hệ gia đình, trong đó có quan hệ vợ chồng, cha mẹ con cái, anhem họ hàng… Như trên đã nói, chúng tôi không giới thiệu toàn diện nên chỉ nêumối quan hệ vợ chồng để xét về phương pháp tiếp cận. Về quan hệ vợ chồng trong ca dao Việt Nam, nhiều người cho rằng, đã ảnhhưởng sâu sắc đạo cường thường của Nho giáo, xuất giá tòng phu. Các tác giảThi ca bình dân Việt Nam viết về ý thức xuất giá tòng phu như sau: “Đây là một quy luật bắt buộc người đàn bà. Chữ “tòng” đây không chỉ cónghĩa là đi theo mà còn phải tuân theo mệnh lệnh của người chồng nữa. Ý thứcnày ăn sâu vào dân gian… Bởi vậy, người đàn bà sống trong chế độ Tam tòngthường có tư tưởng yếu đuối, cầu an. Họ chỉ còn biết làm sao cho chồng thương2 Tham khảo GS Đinh Gia Khánh: Mục đích nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
4. Phạm Việt Long – 2012 Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đìnhđể nhờ vào sự che chở của người chồng… Xem thế, người đàn bà đối với chồngchỉ có nhẫn nhục và chiều chuộng”3 Như vậy các tác giả Thi ca bình dân Việt Nam coi người phụ nữ Việt Nam”sống trong chế độ Tam tòng” của Nho giáo, tuân theo đạo tam tòng nghiêm khắcnày. Phạm Việt Long có nhận định khác. Ông cho rằng: “Qua ca dao, chúng tathấy không phải chỉ có phụ nữ mới theo chồng, mà có cả đàn ông theo vợ, vàquan trọng hơn là họ theo nhau, “phu phụ tương tòng”… Cách thức theo chồngcủa người phụ nữ Việt thời phong kiến đa dạng, phong phú, với nhiều ý nghĩatích cực, thể hiện sự chủ động của người phụ nữ trong việc lựa chọn và xây đắphạnh phúc cho mình. Trong sự chủ động ấy, người phụ nữ sẵn sàng gánh vác việckhó khăn, nặng nhọc, sẵn sàng chịu đựng mọi éo le của cuộc sống miễn là làmcho vợ chồng được gắn bó. Từ khái niệm tòng phu của Nho giáo, các tác giả đãchuyển hoá thành khái niệm theo nhau-“tương tòng”, là biểu tượng cho sự gắnbó vợ chồng người Việt trong xã hội phong kiến” 4 Kết luận như vậy có tính uyển chuyển, nhưng quan trọng là bằng conđường nào, bằng phương pháp nào để đi đến kết luận trên. Trước hết, tác giả không tự định ra trong đầu mình một tư tưởng, rồi tìmnhững đơn vị ca dao thích ứng để minh hoạ cho nó. Ông bao quát một kho tàngca dao đồ sộ khá đầy đủ 5, chứa đựng 11.825 đơn vị ca dao. Từ kho tàng đó, ôngchọn ra 1.179 đơn vị nói về đề tài gia đình, chiếm 9,97% tổng số. Từ đó, để khảosát vấn đề quan hệ vợ chồng, ông chọn được 690 đơn vị có đề tài này, chiếm58,52% đơn vị ca dao nói về gia đình (ngoài quan hệ vợ chồng còn có các quanhệ cha mẹ- con cái, anh chị em…) Từ toàn bộ các đơn vị ca dao nói về quan hệ vợ chồng được rút ra từ Khotàng ca dao, gồm 11.825 câu, tác giả bằng thống kê, chỉ ra có 3 kiểu phục tòng(nôm na là theo): – Vợ theo chồng. “Lấy chồng theo thói nhà chồng”, “Có chồng thìphải theo chồng, Đắng cay cũng chịu, mặn nồng cũng vui”… Trong quan hệ này,tác giả cũng rút ra những trường hợp ngược lại, nghĩa là vợ không theo chồng, sốlượng không đáng kể, ví như: “ăn cam ngồi gốc cây cam, Lấy anh thì lấy về Namkhông về” “ăn chanh ngồi gốc cây chanh, Lấy anh thì lấy về Thanh không về”. – Chồng theo vợ. “Vợ mà biết ở ắt chồng phải theo”, “Mình về anh cũngvề theo, Sum vầy phu phụ hiểm nghèo có nhau”… – Cả hai theo nhau. “Theo nhau cho chọn lời vàng đá”, “Quyết theonhau cho trọn đạo”… (Xin xem các trang 65,66- vi tính, ở đó có đầy đủ dẫn chứng)3 Nguyễn Tấn Long, Phan Canh (1998), Thi ca bình dân Việt Nam (Tập 1), NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.198,194.4 Phạm Việt Long, sách đã dẫn, tr.66 (vi tính).5 Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên và các cộng sự: Kho tàng ca dao người Việt, NXB Văn hoá-Thông tin, H, năm 1995. 4
5. Phạm Việt Long – 2012 Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình Trên cơ sở khảo sát, thống kê một cách khách quan, thận trọng, khối tư liệuto lớn, phong phú và đa dạng nói trên, tác giả mới đi đến nhận định: “Như vậy,qua ca dao, chúng ta thấy không phải chỉ có phụ nữ mới theo chồng…” (đã tríchở trên). Tác giả cũng khảo sát quá trình từ tiếp thu vỏ ngôn ngữ tòng phu đến sựchuyển hoá thành theo chồng, chồng phục tòng vợ và phu phụ tương tòng. Nhưvậy, quan hệ vợ chồng trong văn hoá Việt Nam theo nguyên lý Gắn bó (Vợchồng là nghĩa keo sơn), Thuận hoà (Thuận vợ thuận chồng bể Đông tát cạn). Như vậy, theo đạo lý Việt Nam, mà tục ngữ ca dao là sự ghi nhận trungthành, người phụ nữ Việt Nam không “sống trong chế độ Tam tòng” “yếu đuối,cầu an”, không “chỉ biết làm sao cho chồng thương để nhờ vào sự che chở củangười chồng”. Và càng không thích hợp khi kết luận “Xem thế, người đàn bàViệt Nam đối với chồng chỉ có nhẫn nhục và chiều chuộng”. Trên đây là bàn về những kết luận qua việc khảo sát ca dao coi nó như mộttấm gương phản chiếu, hơn nữa, một tài liệu để điều tra xã hội học về xã hội ViệtNam truyền thống. Trong quan hệ gia đình, ngoài quan hệ vợ chồng như đã nói trên, sáchTNCDVQHG còn đề cập đến các mặt khác như quan hệ cha mẹ- con cái, quan hệanh em- chị em, quan hệ dâu rể. Cách tiến hành, phương pháp nghiên cứu đềunhư trên. Và các kết luận cũng có đóng góp mới và có tính thuyết phục. Cuối cùng tác giả kết luận: “Qua tục ngữ, ca dao, người nghiên cứu thấy rõtính chất dân chủ, bình đẳng, khoan hoà, nhân văn là tính chất “trội” của quan hệgia đình người Việt….(xem thêm ở tr.129- vi tính của sách TNCDVQHG)”. 3. Cho đến nay, đối với các hiện tượng khác của văn hoá Việt Nam vẫn tồntại những nhận định khác nhau. Ví dụ như có người cho tục thờ Thành hoàng là sản phẩm của Trung Hoa.Trong lúc đó, GS Nguyễn Duy Hinh, với một công trình nghiên cứu công phu,hơn 500 trang, chưa kể phụ lục, đã khẳng định: “Thành hoàng làng là tập đạithành văn hoá mà người nông dân Việt Nam đã sáng tạo qua bao nhiêu thểnghiệm, của bao nhiêu thế hệ” 6 Tục thờ cúng tổ tiên cũng vậy, GS Đinh Gia Khánh không cho là đặc thùphương Bắc mà là đặc thù của nền văn hoá Đông Nam Á: “Còn tục thờ cúng tổtiên thì lại là một trong những nét đặc thù của vùng văn hoá Đông Nam Á” 7 Sở dĩ có sự nhận định khác nhau đối với một nền văn hoá, và bản chất cáchiện tượng văn hoá, chủ yếu là do khác nhau về phương pháp. Chúng ta coi trọngquy luật giao lưu văn hoá, nhưng nhiều khi trong quá trình giao lưu đó diễn ra sựtiếp biến văn hoá lâu dài, khiến cho nội hàm của hiện tượng, khái niệm đã thayđổi mà chỉ còn lưu lại cái vỏ ngôn ngữ. GS Từ Chi cũng chia sẻ với ý kiến này:”Trong không ít trường hợp, những yếu tố mà tổ tiên người Việt hiện nay đã lầnlượt tiếp thu từ nền văn minh Trung Hoa qua một thiên niên kỷ Bắc thuộc, và cả6 Nguyễn Duy Hinh: Tín ngưỡng thành hoàng Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, H, 1996, tr, 410.7 Đinh Gia Khánh: Văn hoá dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn hoá Đông Nam Á, NXB Khoa học xã hội, H,1993, tr. 43. 5
6. Phạm Việt Long – 2012 Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đìnhvề sau nữa, khi được tích hợp vào cuộc sống hàng ngày của người bản địa, chỉcòn giữ được ở nơi xuất phát có cái vỏ hình thức nữa thôi (thường là tên gọi)trong khi nội hàm của khái niệm tiếp thu đã biến đổi hẳn” 8 Tóm lại, tác giả Phạm Việt Long trong sách Tục ngữ ca dao về quan hệ giađình đã nghiêm túc tiếp thu người đi trước về phương pháp tiếp cận văn hoá, đólà nguyên nhân quan trọng đem đến những đóng góp mới trong công trình nghiêncứu của ông và đây cũng là kinh nghiệm cho những ai quan tâm đến việc tìm hiểubản sắc văn hoá Việt Nam./. P.Đ.N.8 Nguyễn Từ Chi: Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc người, NXB Văn hoá – Thông tin, Tạp chí văn hoá nghệthuật, H, 1996, tr.240. 6
7. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình MỞ ĐẦU Nhiều nước, nhiều tổ chức trên thế giới đã nhận thức được tầm quantrọng của gia đình đối với sự phát triển của xã hội loài người nên đã có nhiềuhành động nhằm xây dựng và củng cố gia đình. “Ngày 8 tháng 12 năm 1989 Đại Hội đồng Liên hợp quốc tuyên bố năm 1994 là năm quốc tế về Gia đình (IYF) với chủ đề “Gia đình, các nguồn lực, và các trách nhiệm trong thế giới đang thay đổi” và biểu tượng một mái nhà ấp ủ những trái tim. Tư tưởng chủ đạo của năm quốc tế về gia đình là: sự thay đổi của thế giới phải tạo nên sự tiến bộ và tăng cường các phúc lợi cho cá nhân cũng như sự phát triển ổn định của gia đình. Năm quốc tế về gia đình nhấn mạnh đến việc đảm bảo các quyền cơ bản của con người, đặc biệt chú ý đến quyền của phụ nữ và trẻ em, kêu gọi các chính phủ, các tổ chức xã hội quan tâm giúp đỡ các gia đình làm tròn trách nhiệm đối với các thành viên và là hạt nhân của sự phát triển tiến bộ các cộng đồng, dân tộc, quốc gia.”[96:3]. Đảng và Nhà nước ta cũng đã sớm có sự quan tâm đặc biệt đến vấn đềgia đình và có các biện pháp thiết thực chăm lo cho gia đình. Bên cạnh cácđiều luật trong bộ Luật dân sự, ngày 29 tháng 12 năm 1986, Quốc hội nướcCộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ban hành Luật hôn nhân và gia đình,trong đó khẳng định: “Gia đình là tế bào của xã hội. Gia đình tốt thì xã hội mới tốt, xã hội tốt thì gia đình càng tốt; Trong gia đình xã hội chủ nghĩa, vợ chồng bình đẳng, thương yêu, giúp đỡ nhau tiến bộ, tham gia tích cực vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cùng nhau nuôi dạy con thành những công dân có ích cho xã hội;”. [75:94]. Như vậy, gia đình là vấn đề được sự quan tâm đặc biệt của tất cả các tổchức đảng, chính quyền, từ trong nước đến toàn thế giới. Để xây dựng gia đìnhhạnh phúc, cần có cả một hệ thống phương hướng, biện pháp, trong đó có việcquay trở về tìm hiểu những giá trị truyền thống của cha ông, tìm ra trong đónhững mẫu hình và kinh nghiệm tốt đẹp để áp dụng và nhận biết những mặttiêu cực để tránh. 7
8. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình Văn học dân gian, trong đó có tục ngữ, ca dao, là kho tàng văn học quýgiá của đất nước, đã vượt qua mọi thử thách của thời gian, trở thành một thànhtố quan trọng trong gia tài văn hoá nước ta. Thông qua nghệ thuật ngôn từ, tụcngữ, ca dao đúc kết trí tuệ, tình cảm của nhân dân và phản ánh nhiều mặt củaxã hội, trong đó có phong tục, tập quán, có các mối quan hệ trong gia đình.Việc đi sâu nghiên cứu tục ngữ, ca dao đã phát hiện ngày càng nhiều nhữnggiá trị tiềm ẩn trong đó, giúp cho con người của xã hội đương đại có cơ sở đểthực hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, bảo tồn và phát huy truyền thống vănhóa của dân tộc. Trong qúa trình nghiên cứu, sưu tầm văn học dân gian, vớikhối lượng lớn tục ngữ, ca dao đã được sưu tầm, cần có các công trình nghiêncứu theo chuyên đề, đi thật sâu vào những nội dung chủ yếu của tục ngữ, cadao, qua đó làm cho người đương thời hiểu sâu hơn tục ngữ, ca dao, để cócách thức ứng xử phù hợp với kho tàng văn hoá quý giá này của dân tộc và đểrút ra những bài học bổ ích cho cuộc sống hiện tại. Việt Nam đang bước vào giai đoạn phát triển toàn diện, hướng tới mụctiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Phù hợp vớixu hướng của thời đại, Đảng cộng sản Việt Nam coi văn hóa vừa là mục tiêuvừa là động lực của phát triển. Trong quá trình mở rộng cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,hội nhập với thế giới, bên cạnh những yếu tố tích cực, một vấn đề nóng bỏnghiện nay là sự hấp thụ thiếu chọn lọc những biểu hiện văn hóa ngoại lai, xa rờinhững tiêu chuẩn đạo lý dân tộc từng tồn tại hàng nghìn đời nay. Nhiều mặttiêu cực của xã hội hiện đại đã tác động vào gia đình, tạo ra nguy cơ phá vỡ sựbình yên của gia đình. Trong điều kiện đó, gia đình trong xã hội hiện đại đang là một vấn đềđược quan tâm. Quay trở về những giá trị truyền thống, trong đó có quan hệgia đình, đã trở thành xu hướng của thời đại. Việc nghiên cứu những giá trịtrong gia đình truyền thống thể hiện qua tục ngữ, ca dao là một cách thức đónggóp vào việc định hướng xây dựng gia đình trong xã hội ngày nay. Trong bối cảnh trên, việc làm sáng tỏ vấn đề phong tục, tập quán trongquan hệ gia đình qua tục ngữ, ca dao, chọn lựa và đề cao những phong tục tậpquán tốt đẹp của dân tộc, tìm ra và loại bỏ những hủ tục, sẽ góp phần đáng kểvào việc làm rõ nội hàm của khái niệm “Truyền thống văn hóa Việt Nam”,chống lại lối sống thực dụng, xa rời những chuẩn mực đạo đức, giáo dục, nângcao trình độ văn hóa, củng cố gia đình, ổn định xã hội, góp phần xây dựng nềnvăn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phục vụ sự nghiệp cách mạng hiệnnay cũng như lâu dài. 8
9. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình Với những lý do như đã trinh bầy, chúng tôi căn cứ vào tục ngữ, ca daocủa người Việt đã được sưu tầm và in thành sách để khảo sát về quan hệ giađình người Việt truyền thống. Sở dĩ chúng tôi chọn hai thể loại này vì chúnggần gũi với nhau trong phương thức hình thành, lưu truyền cũng như trong nộidung và nghệ thuật. Tục ngữ thiên về lý trí, ca dao thiên về tình cảm, hai thểloại này sẽ bổ trợ cho nhau để chúng ta có thể nhìn nhận vấn đề gia đình từ cảhai góc độ lý trí và tình cảm. Thực hiện phương châm kế thừa có chọn lọc di sản văn hoá của dân tộc,chúng tôi đã tìm hiểu khá kỹ công trình nghiên cứu về tục ngữ, ca dao củanhững bậc tiền bối và thấy như sau: Việc sưu tầm, chú giải tục ngữ, ca dao nóichung đã được tiến hành từ nửa cuối thế kỷ thứ XVIII, nhưng chưa có côngtrình nào đi sâu nghiên cứu riêng về phong tục tập quán trong quan hệ gia đìnhngười Việt mà chỉ có một số tác phẩm đề cập đến vấn đề này trong một sốchương, mục. Năm 1940, qua Kinh thi Việt Nam, Nguyễn Bách Khoa (Trương Tửu)nói về Gia tộc phụ hệ và Chống nam quyền để phân tích về gia đình Việt Namthể hiện qua ca dao. Năm 1960, ở tác phẩm Chống hôn nhân gia đình phongkiến trong ca dao Việt Nam, Hằng Phương nêu lên những nội dung có tínhchất chống đối trong ca dao. Từ năm 1956 đến năm 1978, qua việc phân tíchca dao, Vũ Ngọc Phan nêu lên sự đối xử bất công đối với người phụ nữ, mâuthuẫn mẹ chồng – nàng dâu, chế độ đa thê, cảnh khổ lẽ mọn, đạo tam tòng tróibuộc người phụ nữ. Từ những năm 90 đến nay, các nhà nghiên cứu đã chú ý nghiên cứu vềtục ngữ, ca dao theo chuyên đề. Có những công trình được xuất bản hoặc táibản đáng chú ý như: Thi pháp ca dao của Nguyễn Xuân Kính, Ca dao tụcngữ với khoa học nông nghiệp của Bùi Huy Đáp, Tìm hiểu thi pháp tục ngữViệt Nam của Phan Thị Đào, Nghệ thuật chơi chữ trong ca dao người Việtcủa Triều Nguyên, Tục ngữ Việt Nam, cấu trúc và thi pháp của Nguyễn TháiHòa, Tiếp cận ca dao bằng phương thức xâu chuỗi theo mô hình cấu trúccủa Triều Nguyên… Có hai tác phẩm đi sâu vào nội dung tục ngữ, ca dao, đặcbiệt là khảo sát khá kỹ các mối quan hệ của con người trong xã hội, đó là Thica bình dân Việt Nam của Nguyễn Tấn Long, Phan Canh và Đạo làm ngườitrong tục ngữ, ca dao Việt Nam của Nguyễn Nghĩa Dân. Nghiên cứu về phong tục, tập quán trong gia đình người Việt, các côngtrình ngiên cứu khoa học trên góc độ xã hội học, văn hoá học, và đặc biệt làdân tộc học, đã có những tác phẩm chuyên sâu hoặc đã có những chuyên mụcchuyên sâu. 9
10. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình PGS. Nguyễn Từ Chi trong Góp phần nghiên cứu văn hoá và tộc ngườicó Cơ cấu tổ chức làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ và Nhận xét bước đầu về giađình của người Việt đã đi sâu nghiên cứu về cơ cấu tổ chức của làng xã, giađình cổ truyền, đồng thời cũng chú ý đến một số mối quan hệ trong gia đình,đến vai trò người phụ nữ trong gia đình ấy. Phan Kế Bính trong Việt Nam phong tục có phần khảo sát riêng về Phong tục trong gia tộc. Đáng chú ý là trong khi giới thiệu phong tục tập quán, tác giả thường dẫn tục ngữ để minh chứng. Trong Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình, tác giả ToanÁnh đi sâu vào đời sống gia đình, trong đó nêu lên khái niệm về gia đình theoTừ điển phổ thông và theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh. Tác giả giớithiệu tóm tắt nhưng khá sáng rõ về thành phần gia đình Việt Nam. Phó giáo sư Trần Đình Hượu dành hai chuyên mục trong tác phẩm Đếnhiện đại từ truyền thống để bàn luận về gia đình Việt Nam. Đó là Gia đìnhtruyền thống Việt Nam với ảnh hưởng của Nho giáo, và Đổi mới cách quanniệm giải phóng phụ nữ – Nhìn lại gia đình truyền thống để chuẩn bị thiết thựccho các thiếu nữ vào đời. Điểm qua các công trình, chuyên mục như trên, chúng ta thấy mộtkhoảng trống về nghiên cứu có thể bổ khuyết là khảo sát xem phong tục tậpquán trong quan hệ gia đình người Việt được phản ánh qua tục ngữ, ca daonhư thế nào? Cần nghiên cứu một cách tổng thể vấn đề này trong một côngtrình chuyên biệt để có cái nhìn toàn diện hơn, qua đó làm cho việc hiểu vềgia đình người Việt cũng như tục ngữ, ca dao người Việt được sâu sắc hơn. Trong công trình này, chúng tôi vận dụng kết hợp nhiều phương phápnghiên cứu: phương pháp nghiên cứu của các ngành văn học dân gian, xã hộihọc văn hóa, văn hóa học, phương pháp nghiên cứu liên ngành (văn hoá dângian, văn học, xã hội học, dân tộc học…), phương pháp thống kê, quy nạp,phương pháp hệ thống. Vận dụng phương pháp hệ thống, chúng tôi quan niệm rằng tục ngữ, cadao nằm trong hệ thống văn học dân gian, đồng thời mỗi thể loại là một hệthống riêng, và đi sâu hơn nữa, mỗi chủ đề lại là một hệ thống con, có cấu trúcvới những nhân tố nội tại, tạo nên những chất tích hợp của chúng… Nghiêncứu tục ngữ, ca dao, bên cạnh việc tìm hiểu nội dung của từng đơn vị, chúngtôi cố gắng tìm ra những chất tích hợp từ hệ thống các chủ đề và chất tích hợpcủa toàn bộ hệ thống tục ngữ, ca dao. 10
11. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình Vận dụng phương pháp thống kê, chúng tôi kết hợp giữa thao tác địnhtính là thao tác thông thường của ngành nghiên cứu khoa học xã hội và nhânvăn, với thao tác định lượng là thao tác thông thường của ngành nghiên cứukhoa học tự nhiên, để cố gắng đạt được sự chính xác trong nhận định, đánh giáđối tượng nghiên cứu. Phương pháp thống kê ở đây phù hợp với đối tượngnghiên cứu, vì thường tục ngữ, ca dao là những đơn vị nhỏ, hầu hết có cùngmột kiểu cấu trúc. Chúng tôi đã ứng dụng công nghệ thông tin để thực hiệnphương pháp thống kê được triệt để, chính xác. Đây là phương pháp hiện đại,yêu cầu người sử dụng phải có một số kiến thức tối thiểu về tin học, đồng thờiphải cộng tác với những nhà chuyên môn về tin học để xây dựng hai phầnmềm chuyên biệt về tục ngữ, ca dao. Hai phần mềm này quản lý cơ sở dữ liệuvề tục ngữ, ca dao theo nhiều tiêu chí do người nghiên cứu quy định, trong đóquan trọng nhất là các tiêu chí về thể loại, chủ đề, nội dung và ghi chú. Phầnghi chú hết sức quan trọng, ghi đậm dấu ấn của người nghiên cứu, giúp ngườinghiên cứu phân loại chi tiết hơn tục ngữ, ca dao theo nhiều yêu cầu (như vềnội dung, về thi pháp…) để rồi có thể tổng hợp nhanh chóng các câu tục ngữ,ca dao cùng một tiêu chí, làm cho việc thống kê về số lượng và việc nhìn nhậnvề chất lượng nội dung tục ngữ, ca dao được nhanh chóng và chính xác. Đốivới văn hóa dân gian như tục ngữ, ca dao, dân ca, cổ tích… lâu nay chúng tathường vận dụng các phương pháp có tính ước lượng theo dự kiến sẵn có từngười nghiên cứu. Trong giới thiệu, nghiên cứu về tục ngữ, ca dao, mô hìnhchung thường làm là đưa ra một nhận định, lấy một vài đơn vị để chứng minhrồi phân tích đơn vị được dẫn và đi đến kết luận (thực ra kết luận đã có trướckhi khảo sát tư liệu, đây là một thao tác ngược). Có thể mô hình hoá phươngpháp đó như sau: Kết luậnNhận định Dẫn chứng Phân tích dẫn chứng (theo hướng đã nhận định) Ví dụ : Khi nhận định rằng người Việt bao dung, dễ tha thứ, có thể dẫncâu: “Ơn ai một chút chớ quên, oán ai một chút để bên dạ dày.” Nhưng nếunhận định rằng người Việt ơn oán rạch ròi, có thể dẫn câu: “Ơn đền ơn, oán trảoán.” Phải thống kê, so sánh giữa những câu nói lên sự bao dung và sự rạchròi, thì mới có thể rút ra kết luận khách quan, chính xác. Có tác giả khẳng định”…ca dao Việt Nam đã chứng tỏ rằng trong quần chúng nhân dân, tư tưởng 11
12. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đìnhchống đối giai cấp phong kiến vẫn là tư tưởng chủ đạo”. [99:322]. Ý kiến trêncó thể đúng hoặc không đúng. Tuy nhiên không có tư liệu số liệu để chứngminh. Trong khi đó, dùng phương pháp thống kê trong hệ thống, với số liệu5.682 câu ca dao nói về giao duyên nam nữ trong tổng số 11.825 câu ca daođược sưu tầm, chiếm tỷ lệ 48%, thì có thể nói chắc chắn rằng giao duyên namnữ là chủ đề chiếm ưu thế trong ca dao. Văn hóa dân gian ở dạng nguyên hợp, đôi khi phức tạp, không thể nhặt ramột vài đơn vị theo sự lựa chọn của riêng người nghiên cứu mà nhận định rằngđó là những biểu hiện tiêu biểu cho tính dân tộc, tính Việt Nam. Phương phápnghiên cứu thích hợp là tổng hợp từ một kho tàng văn hóa dân gian tương đốiđầy đủ, bằng thống kê, so sánh, thực hành thao tác định lượng cùng với thaotác định tính để rút ra những kết luận khách quan, khoa học. Trong mọi vấn đề, mọi chủ đề, để rút ra nhận xét và kết luận, chúng tôiđều dựa trên toàn thể các câu tục ngữ, ca dao thuộc chủ đề đó. Các ý kiến khácnhau hoặc đối lập nhau (phản ánh trong tục ngữ, ca dao), chúng tôi đều ghinhận để xem xét, không đưa ra những định kiến trước. Nếu có ý kiến đối lập(phản ánh trong tục ngữ, ca dao), để xem ý kiến nào là chủ đạo, chúng tôi tínhsố lượng và tỷ lệ phần trăm. Để làm rõ hơn các nội dung giống nhau và khácnhau, chúng tôi đưa ra các bảng thống kê, so sánh. Để chỉ tính chất của các hiện tượng thể hiện trong tục ngữ, ca dao, thaycho những loại từ chỉ mức độ như: rất, vô cùng, tương đối, phần nào, ít, ít ỏi,hiếm thấy… chúng tôi diễn đạt bằng con số (trị số tuyệt đối và tỷ lệ). Chúng tôikhông dừng ở con số, bảng, biểu… vì nhận thức rằng chúng tuy cụ thể nhưngnhiều khi khô cứng, không phản ánh đầy đủ các khía cạnh của cuộc sống, nhấtlà cuộc sống tinh thần, tư tưởng, tình cảm. Do đó, chúng tôi cũng rất coi trọngsự nhận xét, bàn luận bằng ngôn ngữ (định tính). Phương pháp nghiên cứu như trên rất phù hợp với loại hình tục ngữ, cadao, là loại hình có các thành tố có cấu trúc tương đối giống nhau, sự trùnghợp của các thành tố ấy có tần xuất tương đối lớn. Điều này đã được các nhànghiên cứu đi trước chỉ ra như sau: “Công trình Hình thái học truyện cổ tích (xuất bản lần đầu năm 1928) của Prốp là một thể nghiệm thành công của việc áp dụng những phương pháp nghiên cứu chính xác vào các khoa học nhân văn, vào việc giải mã các tác phẩm văn chương nghệ thuật. Mặc dù biết khả năng to lớn của việc sử dụng các phương pháp chính xác, Prốp vẫn thấy 12
13. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình rõ những giới hạn của chúng. Theo ông, những phương pháp này “chỉ có thể được sử dụng và đem lại kết quả ở những nơi mà sự lặp lại có trong một phạm vi lớn. Điều này chúng ta có ở trong ngôn ngữ, điều này chúng ta có ở trong văn học dân gian” [Dẫn theo 151:138]. Chúng tôi đã khai thác một phần trong phần mềm Tục ngữ Việt Nam, Cadao Việt Nam mà chúng tôi mới xây dựng để làm tư liệu cho công trình nghiêncứu này. Với khả năng quản lý tốt tư liệu, giúp phân loại, tra cứu nhanh vàchính xác nhiều loại chủ đề và nội dung theo yêu cầu phức tạp của ngườinghiên cứu, phần mềm này sẽ là công cụ có ích cho việc nghiên cứu tục ngữ,ca dao với các đề tài còn lại. Lần đầu tiên tục ngữ, ca dao người Việt được nghiên cứu một cách hệthống trên bình diện phong tục tập quán về gia đình với khối lượng khá lớn.Qua tục ngữ, ca dao, công trình làm nổi rõ tính chất dân chủ, bình đẳng, khoanhòa, nhân văn trong quan hệ gia đình người Việt. Tuy vậy, với khối lượng khálớn tư liệu, với tính chất phức tạp của vấn đề nghiên cứu, chắc chắn rằng côngtrình không tránh khỏi những khiếm khuyết, mong bạn đọc lượng thứ. 13
14. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình CHƯƠNG MỘT TIỀN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN QUAN HỆ GIA ĐÌNH ĐƯỢC PHẢN ÁNH QUA TỄC NGỮ, CA DAO 1. NHỮNG QUAN NIỆM CHÍNH VỀ GIA ĐÌNH VIỆT NAMTRUYỀN THỐNG 1.1. Khái niệm gia đình Gia đình là một thực thể vừa mang tính tự nhiên, vừa mang tính xã hội,gắn bó với nhau thông qua quan hệ hôn nhân, thân tình và dòng máu để đápứng nhu cầu về tình cảm, bảo tồn nòi giống, giữ gìn và phát huy những giá trịvăn hóa của cộng đồng và tộc người, góp phần nuôi dưỡng nhân cách conngười, phát triển kinh tế – xã hội, phản ánh sự vận động của cộng đồng và quốcgia trong tiến trình lịch sử. 1.2. Gia đình Việt Nam truyền thống Gia đình là đối tượng nghiên cứu của nhiều nhà nghiên cứu về văn hóaViệt Nam. Mỗi tác giả tìm cách tiếp cận khác nhau về gia đình. Phan Kế Bínhtrong Việt Nam phong tục khảo sát gia đình thông qua phong tục trong gia tộc,gồm các mục: Cha mẹ với con, anh em, chị em, thân thuộc, phụng sự tổ tông,đạo làm con, thượng thọ, sinh nhật, thần hoàng, tang ma, cải táng, kỵ nhựt, tứthời tiết lập, giá thú, vợ chồng, vợ lẽ, cầu tự, nuôi nghĩa tử. Đáng chú ý làtrong khi giới thiệu phong tục tập quán, tác giả thường dẫn tục ngữ để minhchứng. Phan Kế Bính đã đưa ra nhận xét như sau: trong quan hệ gia đình ngườiViệt, hòa mục là điều hết sức quan trọng, đạo làm con phải trọng chữ hiếu, vợchồng phải giữ chữ tiết nghĩa với nhau. Ông cũng phê phán một số biểu hiệntiêu cực đã thành tập tục trong quan hệ gia đình như trọng nam khinh nữ, đathê… Trong Tìm hiểu phong tục Việt Nam qua nếp cũ gia đình, tác giả ToanÁnh đi sâu vào đời sống gia đình, theo cách hiểu của học giả Đào Duy Anh:Gia đình chỉ “những người thân thuộc trong một nhà.” [3:8]. Ông giới thiệutóm tắt về thành phần gia đình Việt Nam và viết: “Qua các thành phần trên chothấy rằng gia đình Việt Nam bao quát rất rộng, và mọi người đều có tình thânthuộc với nhau qua mọi thế hệ, không kể bởi họ nội, ngoại, nhiều khi bởi cảhai bên nội ngoại.” [3:24-25]. Ở góc độ tiếp cận khác, Phó giáo sư Trần Đình Hượu đã xem xét Giađình truyền thống Việt Nam với ảnh hưởng Nho giáo và viết: 14
15. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình “Gia đình truyền thống Việt Nam chịu ảnh hưởng Nho giáo sâu sắc, nhưng tìm ảnh hưởng đó không nên chỉ căn cứ vào lý thuyết Nho giáo, mà nên nhìn gia đình trong thể chế chính trị – kinh tế – xã hội tổ chức và quản lý theo Nho giáo, bị điều kiện hoá trong thể chế đó mà vận động phát triển. Theo chúng tôi, những điều kiện đó là: – Chế độ chuyên chế với quyền vương hữu, quyền thần dân hoá toàn thể với nền kinh tế cống nạp. – Trật tự trên dưới theo phân vị. – Tổ chức làng – họ. – Cuộc sống nông thôn và cung đình. – Sự giáo hoá sâu rộng về trách nhiệm với vua với nước, về tình nghĩa gia đình, họ hàng, về lí tưởng sống êm ấm, trên kính dưới nhường, về quyền người đàn ông, người cha, người chồng”. [57:314] “Ảnh hưởng Nho giáo đến gia đình truyền thống Việt Nam là lâu dài và liên tục cho đến khi Việt Nam thành thuộc địa cuả Pháp và xã hội Việt Nam bắt đầu Âu hoá. Nhưng ảnh hưởng đó cũng có khác nhau tuỳ từng thời kỳ, từng vùng và từng loại gia đình. Trong việc nghiên cứu gia đình truyền thống và ảnh hưởng Nho giáo trong đó, cũng chỉ một vài loại gia đình thực sự có ý nghĩa”. [57:315] Tác giả đã phân tích các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của nước tatrước đây để chỉ ra có bốn hạng người trong dân là sĩ, nông, công, thương,nhưng quan trọng nhất là nông và sĩ. Từ đó, ông “Phân biệt gia đình truyềnthống Việt Nam thành hai loại lớn: quan hộ và dân hộ.”[48:320]. Tác giả viết: “Trong xã hội trước đây, nông dân và nhà nho có vai trò xã hội lớn nhất, gia đình nông dân và gia đình nhà nho cũng là tiêu biểu nhất. Gia đình nông dân, đặc biệt là gia đình trung nông, tiêu biểu cho cách tổ chức làm ăn sản xuất nông nghiệp nhằm tự túc và đóng góp cho làng nước. Gia đình nhà nho tiêu biểu cho cách dùng lễ nghĩa xây dựng nền nếp trong nhà và ăn ở với họ hàng làng xóm.” [57:320]. PGS. Nguyễn Từ Chi nghiên cứu sâu vào cơ cấu tổ chức làng xóm vànhận xét bước đầu về gia đình người Việt, mà địa bàn chủ yếu là vùng đồngbằng và trung du Bắc Bộ. Với gia đình người Việt cổ truyền, Nguyễn Từ Chinhấn mạnh đến loại mô hình gia đình nhỏ, gia đình hạt nhân: “Gia tộc Việt, từnông thôn đến thành thị, ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, cả trên khắp đấtnước, từ lâu cũng đã giải thể đến mức gia đình nhỏ rồi, thậm chí trong tuyệt 15
16. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đìnhđại đa số các trường hợp, là gia đình hạt nhân.”[15:181. Ông nhìn sâu vào tínhchất của gia đình Việt cổ truyền như sau: “Tính chất phụ quyền của gia tộc Việt là điều đã được nhiều lần nhấn mạnh, với các nguyên lý chính làm khung cho nó: quyền uy tối cao của người cha với con cái, của người chồng đối với người vợ, đặc quyền thừa kế của con trai, đặc biệt của con trai trưởng, vai trò quán triệt, có khi hầu như độc tôn của đàn ông chủ hộ trong mọi tổ chức ngoại gia đình… Tính chất phụ quyền ấy còn được tô đậm bởi nhiều thế kỷ giáo dục nhà Nho. Trên bình diện sinh hoạt cộng đồng của làng – xã, sự vắng mặt quá “lộ liễu” của phụ nữ trong cơ cấu tổ chức càng nói lên thế lép vế của họ. Tuy nhiên, nguyên lý, nhiều khi chỉ là nguyên lý, chỉ là biểu hiện của “cấu trúc hữu thức” cộng đồng. Xét lại vấn đề dưới góc độ thực tế hơn của nền kinh tế tiểu gia đình, thì số phận người phụ nữ Việt đâu có hẩm hiu như thế.. Không phải chỉ vì họ là người tiếp tay đắc lực và không thể thiếu cho cha, cho chồng, trong lao động nông nghiệp nặng nhọc, mà còn (và chủ yếu?) bởi vì “luồng tiểu thương rất phát đạt trong vùng châu thổ [và trung du Bắc Bộ – TT], thực ra là nằm trong tay phụ nữ. Như vậy, chính người phụ nữ mang về cho gia đình một phần thu nhập không phải không đáng kể, dưới dạng tiền mặt, còn nông phẩm lại thể hiện khía cạnht tự cấp tự túc của nền kinh tế nông thôn.[192] Những tác phẩm được dẫn ra trên đây giúp chúng ta hình dung về tổ chứcvà tính chất gia đình Việt Nam truyền thống để có thể so sánh với các hìnhmẫu gia đình được tục ngữ, ca dao phản ánh. Xã hội Việt Nam cổ truyền cóhai loại gia đình cơ bản: gia đình nông dân và gia đình nhà nho. Gia đình nôngdân là một đơn vị sản xuất theo kiểu chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa. Giađình nhà nho là gia đình theo kiểu bên anh đọc sách bên nàng quay tơ. Năm 1991, công trình Những nghiên cứu xã hội học về gia đình ViệtNam ( NXB Khoa học xã hội – Hà Nội- 1991) đã công bố 12 bài nghiên cứu vềgia đình, cho chúng ta hình dung về sự biến đổi sâu sắc của gia đình truyềnthống Việt Nam trong thời kỳ mới của lịch sử Việt Nam có chủ trương đổi mớicủa Đảng ( năm 1986). Chúng ta biết rằng vào đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tăng cường khaithác thuộc địa Việt Nam, xã hội Việt Nam phân tầng sâu sắc, quá trình Âu hoádiễn ra nhanh chóng ở các đô thị và có ảnh hưởng nhất định vào nông thônViệt Nam. Triều đình Huế đã chấm dứt việc thi cử bằng chữ Hán, Hán học bị 16
17. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đìnhthất thế, Vũ Đình Liên với bài thơ Ông Đồ chia sẻ tâm trạng của cả xã hội ViệtNam đối với tầng lớp Nho sĩ thất thế. Xã hội Việt Nam xuất hiện nhiều giaitầng mới, trong đó có viên chức và công nhân. Ngày nay, từ kết quả của các công trình nghiên cứu về Nho giáo, chúngta không phủ nhận ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho giáo đối với văn hóa giađình ở Việt Nam. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế và xã hội cho nên mẫu hìnhtruyền thống của gia đình Việt Nam có những nét rất khác với gia đình truyềnthống ở Trung Quốc. Cũng vì vậy, tư tưởng về gia đình của Nho giáo đã bịkhúc xạ trong gia đình truyền thống ở Việt Nam. Ví dụ gia đình truyền thốngcủa Trung Quốc đặc biệt nhấn mạnh vai trò, quyền lợi và trách nhiệm của họtộc và thường gia đình phát triển theo hướng gia đình nhỏ thành đại tộc. Trongxưng hô, người Trung Quốc đưa họ lên vị trí chủ yếu (Lưu tiên sinh, Trần đạinhân…), tên người là phụ. Trong khi đó, ở Việt Nam, gia đình thường ở quymô nhỏ, cách xưng hô thân mật hơn, nhấn mạnh tên người, đề cao tính cộngđồng “tối lửa tắt đèn có nhau”, “bán anh em xa mua láng giềng gần” chứkhông đề cao tuyệt đối tộc họ, coi đó như là một đẳng cấp phân biệt trong xãhội. Những đặc tính nói trên được phản ánh rõ trong các mối quan hệ tronggia đình mà chúng tôi sẽ phân tích ở các chương sau qua tục ngữ, ca dao. 2. KHÁI NIỆM TỤC NGỮ, CA DAO, PHONG TỤC, TẬP QUÁN Đã có nhiều nhà nghiên cứu đưa ra các khái niệm về tục ngữ, ca dao,phong tục tập quán. Tuỳ từng góc độ chuyên môn, mỗi nhà nghiên cứu quantâm đến những đặc tính này hay đặc tính khác của đối tượng để định nghĩakhái niệm, nhưng nói chung đã tương đối thống nhất ở những điểm cơ bản. Kếthừa quan niệm của các nhà khoa học đi trước, chúng tôi nêu lên những kháiniệm sát với hướng nghiên cứu của chúng tôi như sau: 2.1. Khái niệm tục ngữ Tục ngữ là một thể loại văn học dân gian, được hình thành và sử dụngtrong lời nói hàng ngày, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống, thường ngắn gọn,có vần điệu, thành câu hoàn chỉnh, có chức năng thông báo, được phổ biếnrộng rãi trong nhân dân. 2.2. Khái niệm ca dao Ca dao là một thể loại văn học dân gian, có tính trữ tình, có vần điệu(phần lớn là thể lục bát hoặc lục bát biến thể) do nhân dân sáng tạo và lưutruyền qua nhiều thế hệ, dùng để miêu tả, tự sự, ngụ ý và chủ yếu diễn đạt tìnhcảm. Nhiều câu ca dao vốn là lời của những bài dân ca. Vào giai đoạn muộn vềsau, ca dao cũng được sáng tác độc lập. 17
18. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình Cần nói thêm rằng giữa tục ngữ và ca dao có sự giao thoa nhất định. Cónhững trường hợp tục ngữ dược trình bầy dưới hình thức ca dao (thể thơ lụcbát); có những trường hợp khó phân biệt là tục ngữ hay ca dao. 2.3. Khái niệm phong tục, tập quán trong quan hệ gia đình Phong tục, tập quán trong quan hệ gia đình là những thói quen đã thànhnếp lâu đời, được lan truyền rộng rãi, ăn sâu trong quan hệ giữa các thành viêntrong gia đình cũng như xã hội. Phong tục và tập quán khác nhau ở chỗ: Tập quán là thói quen hình thànhtrong các sinh hoạt mà con người tiếp thu được và tự giác thực hiện hành vicủa mình. Phong tục là quy định bất thành văn mà cộng đồng người quy ướcvới nhau có tính bắt buộc mọi người phải theo. Vì thế tục ngữ có câu “Nhậpgia tùy tục”. Ai làm trái quy ước đó sẽ bị dư luận chê bai và người có quyền uynhắc nhở. Ví như trong các cuộc giỗ họ, những người có thứ bậc ngang nhauđược ăn cùng mâm. Một số làng đặt ra hương ước – đây là cách thức văn bảnhoá phong tục để yêu cầu mọi người tuân thủ. Vì thế mới có câu “Phép vuathua lệ làng”. 2.4. Mối quan hệ giữa tục ngữ, ca dao và phong tục tập quán Giữa tục ngữ, ca dao và phong tục tập quán có mối quan hệ hữu cơ,tương hỗ. Phong tục, tập quán là cái được phản ánh, còn tục ngữ, ca dao làhình thức phản ánh của cái được phản ánh. Tục ngữ, ca dao xuất phát từ cuộcsống, phản ánh phong tục, tập quán, đúc kết thành kinh nghiệm và biểu bộ tìnhcảm theo quan niệm dân gian và trở lại tác động vào cuộc sống, góp phần phổbiến những phong tục tập quán tốt đẹp, phê phán những thói hư tật xấu trongxã hội. 3. NHỮNG Ý KIẾN CHÍNH XUNG QUANH CÁC MỐI QUAN HỆTRONG GIA ĐÌNH NGƯỜI VIỆT ĐƯỢC PHẢN ÁNH QUA TỤC NGỮ,CA DAO Những nhà nghiên cứu đi trước ít nhiều đã nghiên cứu về nội dung tụcngữ, ca dao theo các góc tiếp cận khác nhau. Đóng góp của họ là rất lớn, đãthúc đẩy ngành nghiên cứu văn học dân gian phát triển. Tuy vậy, việc phântích sâu chủ đề phong tục tập quán về gia đình trong tục ngữ, ca dao chiếm tỉtrọng còn thấp trong những công trình khảo cứu về tục ngữ, ca dao nói chung.Từ năm 1969 đến năm 1971 và năm 2000 có hai công trình đi sâu vào nộidung tục ngữ, ca dao, đặc biệt là khảo sát khá kỹ các mối quan hệ của conngười trong xã hội, đó là Thi ca bình dân Việt Nam (1969 – 1971) của Nguyễn 18
19. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đìnhTấn Long, Phan Canh và Đạo làm người trong tục ngữ, ca dao Việt Nam(2000) của Nguyễn Nghĩa Dân. Chúng tôi xin lược trích một số công trình nghiên cứu về tục ngữ, ca daocó liên quan đến chủ đề gia đình như sau: Trong Ca dao – dân ca- tục ngữ – vè, Hoàng Như Mai có bài Tình yêuvà hạnh phúc gia đình trong thơ ca dân gian, Anh Biên có bài Quan niệmvề con người trong tục ngữ, Lê Anh Hiền có bài Tục ngữ và ca dao ViệtNam với tình mẫu tử, trong đó các tác giả trình bày những biểu hiện tốt đẹptrong quan hệ gia đình được tục ngữ, ca dao phản ánh, nhấn mạnh đến vấn đềđáng quan tâm nhất là sự hoà thuận trong gia đình người Việt. Các soạn giả Thi ca bình dân Việt Nam (tập 2) đã khảo sát 6 vấn đề đặtra: – Phong tục Việt Nam xuyên qua ca dao. – Quan niệm về chế độ gia đình. – Những vui buồn trong mưu sinh. – Biến thái của tình cảm con người đối với sinh hoạt xã hội. – Tình yêu quê hương dân tộc. – Ý thức đấu tranh của người bình dân qua các chế độ thống trị. Khái quát các nội dung trên, các tác giả nêu nhận định: “… dân chúng Việt Nam bị ách đô hộ người Tàu thống trị, nền tảng của triết thuyết Nho giáo ăn sâu vào xã hội Việt Nam, ảnh hưởng vào mọi gia đình Việt Nam đến tận gốc rễ. Vậy sự chống đối của người bình dân đối với chế độ gia đình là sự chống đối giữa quan niệm người bình dân trước mọi ảnh hưởng ngoại lai của lý thuyết Khổng Mạnh.” [73:161-162]. Vào năm 1940, Kinh Thi Việt Nam của Nguyễn Bách Khoa (TrươngTửu) nói về quan hệ gia đình, về Chống nam quyền như sau: “Luân lý phụquyền đặt người đàn ông lên địa vị chủ tể. Phụ nữ Việt Nam đã mỉa mai, giàyđạp cái oai quyền ấy. Họ tìm đủ tính xấu của đàn ông đem ra trào phúng, đểchứng rằng địa vị ưu thắng của đàn ông không được họ công nhận.” [52.103].Qua ca dao, ông rút ra những tính xấu của đàn ông bị phụ nữ mỉa mai là:hoang đàng, đĩ thoã, phụ tình, và nhận định rằng người đàn bà đã nổi loạn, cốđạp đổ cái hình tượng đàn ông. Nguyễn Bách Khoa dành hai chương Gia tộc phụ hệ và Chống namquyền để phân tích về gia đình Việt Nam thể hiện qua ca dao: 19
20. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình “Đứa con không là gì hết, người đàn bà không là gì hết, con người không là gì hết. Cha là tất cả, chồng là tất cả, đàn ông là tất cả. Đó là chân lý phụ quyền của Nho giáo, mà giai cấp sĩ phu vẫn muốn dùng làm luân lý nền tảng của xã hội Việt Nam cũ, bởi nó rất thích hợp với chế độ quân quyền và kinh tế nông nghiệp, hai nguồn quyền lợi của giai cấp ấy. Nhưng chế độ quân quyền với trạng thái nông nghiệp ở xứ ta cũng mang một hình thức đặc biệt không giống xã hội Trung Quốc. Cho nên chế độ gia tộc Việt Nam chỉ tiến được đến khuôn khổ phụ hệ là ngừng lại, không đủ điều kiện chuyển sang khuôn khổ phụ quyền tuyệt đối như ở Trung Hoa. Vì thế mà ở trong dân gian luôn luôn lưu hành một sức chống nam quyền, chống phụ quyền, chống Nho giáo rất là mạnh mẽ.” [63:102]. Trong tác phẩm Chống hôn nhân gia đình phong kiến trong ca daoViệt Nam (1960), Hằng Phương viết: “Dưới chế độ phong kiến, mặc dầu bịđàn áp thậm tệ, bị luân lý phong kiến mê hoặc, nhồi sọ, nhưng những tư tưởngchống đối vẫn nẩy nở và phổ biến rộng rãi trong câu ca tiếng hát dân gian.”[122:1]. Tác giả nêu lên những nội dung có tính chất chống đối trong ca daolà: – Những nỗi lo âu và đau khổ của nam nữ thanh niên thời xưa. – Cưỡng ép hôn nhân. – Tảo hôn. – Đa thê – Cảnh góa bụa. – Mẹ chồng nàng dâu, mẹ ghẻ con chồng. – Không dân chủ trong gia đình. Vào năm 1960, viết như trong tiểu luận thể hiện một tinh thần chống đốiphong kiến đáng trân trọng. Công trình nghiên cứu tuy còn sơ lược nhưngcũng đã nêu lên diện mạo phía trái của gia đình Việt Nam; tuy nhiên, nếukhông nhìn sang phía phải, thì e rằng sẽ không tìm ra những truyền thống quýbáu trong quan hệ gia đình người Việt để gìn giữ và phát huy. Nguyễn Nghĩa Dân chia tục ngữ, ca dao về đạo làm người thành hai loại:một loại về lao động, học tập, tu dưỡng rèn luyện bản thân, và loại về đạo làmngười trong quan hệ gia đình. Tác giả viết: “Tục ngữ, ca dao nêu bật truyền thống hiếu thảo của con đối với cha mẹ,”… “Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, đạo hiếu được xem như một chuẩn mực bao trùm để định giá đạo đức của một con người.”[19:56]. 20
21. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình “Tục ngữ, ca dao cũng không quên phê phán những hiện tượng bất hiếu được lưu truyền như kinh nghiệm xấu…” “Cùng với quan hệ cha mẹ con cái là quan hệ anh chị em, gần gũi và tình nghĩa. Quan hệ ruột thịt thắt chặt mối quan hệ này…” [21:57]. “Quan hệ vợ chồng chủ yếu là tình yêu và hòa thuận.” [21:58]. Phần gia đình chỉ là một điểm (6 trang) trong chuyên luận trên bẩy chụctrang, do đó chỉ nêu được những ý chính mang tính nhận định khái quát, khôngđi sâu phân tích, chứng minh. Trong khi phân tích, dẫn chứng, tác giả cũngtrích dẫn tục ngữ, ca dao. Vũ Ngọc Phan viết: “Trong chế độ phong kiến, việc quy định tài sản đối với phụ nữ rất là khe khắt. Việc quy định ấy chủ yếu làm cho phụ nữ không bao giờ được độc lập về kinh tế, dù chính phụ nữ đã góp phần xây dựng kinh tế gia đình: Hỡi cô cắt cỏ đồng mầu! Chăn trâu cho khéo làm giầu cho cha. – Giàu thì chia bảy chia ba, Phận em là gái được là bao nhiêu! Trong 24 huấn điều của Lê Hiến Tông (1500) huấn điều thứ tám và thứ chín đã quy định về phụ nữ: “Khi chồng chết, phải thương yêu con vợ trước hoặc con vợ lẽ của chồng, nếu có gia tài, không được chiếm đoạt làm của riêng mình.”, “Khi chồng chết mà mình chưa có con, thì phải ở lại nhà chồng, giữ việc tang lễ, không được giấu giếm chuyển vận tài sản nhà chồng đem về nhà mình”. [99:338]. “Nhưng ca dao Việt Nam đã chứng tỏ rằng trong quần chúng nhân dân, tư tưởng chống đối giai cấp phong kiến vẫn là tư tưởng chủ đạo. Cho nên trong hôn nhân khi họ đã không ưng thuận, thì họ cũng không kể gì giàu sang phú quý, và cũng không tin gì ở số mệnh:” [114:339]. Vũ Ngọc Phan còn đề cập đến những vấn đề khác trong quan hệ gia đìnhnhư: mâu thuẫn mẹ chồng – nàng dâu, chế độ đa thê, cảnh khổ lẽ mọn, đạo tamtòng trói buộc người phụ nữ. Giáo sư Đinh Gia Khánh viết: “Điều 307 Lê triều hình luật quy định rằng người chồng xa cách vợ năm tháng, không thăm hỏi đi lại thì có thể bị mất vợ. Đã có con với nhau rồi thì gia hạn từ năm tháng lên một năm. Nếu vì công sai (đi việc công) thì bất luật (tức là có thể vắng nhà lâu, không bàn tới kỳ hạn). 21
22. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình Như vậy là quyền lợi và hạnh phúc người phụ nữ được coi trọng và được bảo vệ, trái hẳn với quan niệm nam tôn nữ ty của Nho giáo. Điều lệ thi hành từ năm Hồng Đức thú hai (1471) quy định rất rõ quyền lợi của phụ nữ trong việc thừa kế gia sản.” …”Như vậy là trong gia đình, con gái cũng được coi bình đẳng như con trai. Thật là trái với quan niệm “nữ nhân ngoại tộc”, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô” theo lễ giáo của nho gia.” [61: 285]. Nguyễn Tấn Long và Phan Canh nhấn mạnh đến luật pháp của phongtục, nó khiến cho chế độ cai trị phải tôn trọng lề thói của địa phương. Các tácgiả liên hệ: Trong thi ca bình dân, những tầng lớp phụ nữ đã nối tiếp nhau quanhiều thế hệ, nói lên ý thức chống đối của họ, cho nên, ngoài sự phát triển mứcsống của hệ thống kinh tế, sự chống đối giữa ý thức cai trị và ý thức tục lệchính là mầm mống phân chia trong hệ thống chính trị.” [61:81]. Phân tích quan niệm về chế độ gia đình, các tác giả nêu ra 11 vấn đề là: – Ảnh hưởng của chế độ phụ hệ. – Ý thức bất mãn trong chế độ phụ hệ. – Nỗi khổ cực trong sinh hoạt gia đình bình dân. – Ý thức bảo vệ và xây dựng gia đình. – Ý thức về giáo dục gia đình. – Những khắc khoải của tình yêu qua phong tục lễ giáo. – Hiếu đạo với ông bà, cha mẹ. – Tình anh em. – Tình vợ chồng. – Tình thân thuộc. – Tình làng xóm. Trong quá trình phân tích, các tác giả đã nêu lên ảnh hưởng của chế độphụ quyền vào gia đình người Việt, thể hiện ở ý thức của con người theo quanđiểm Nho giáo: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử, nghĩa là: ởnhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con (trai). Trong Thi ca bình dân Việt Nam, các tác giả cũng phân tích theo ba nộidung của giáo lý tam tòng: “Theo phân tích trên, chúng ta căn cứ vào tục ngữ, ca dao Việt Nam để nhận xét, thì người Việt Nam không chống chế độ phụ hệ, mà chống chế độ phụ quyền.” … “Người đàn bà Việt Nam thương chồng và theo chồng trên căn bản, không phải bị áp bức, bắt buộc, mà phát xuất từ tình thương, ở 22
23. Phạm Việt Long – 2012 Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình lòng mong mỏi xây dựng gia đình. Bởi vậy, chúng ta thấy trong tâm tư họ có cái gì tha thiết, như: Vai mang khăn gói theo chồng Đắng cay thiếp chịu, mặn nồng thiếp cam.” [72:197-198]. Các tác giả nhận xét rằng người đàn bà bình dân đã chống lại chế độ phụ quyền bằng cách lật đổ hình tượng người đàn ông, chỉ rõ những thứ xấu xa của người đàn ông, phủ nhận ý thức tôn thờ người đàn ông: “Cho nên, nếu người đàn ông đem giá trị người đàn bà hạ nhục để khống trị9, thì người đàn bà cũng đem giá trị người đàn ông hạ nhục để chống lại. Trạng thái ấy phản ứng rất rõ rệt trong ca dao Việt Nam, …” [72:203]. “Sự khinh miệt giữa người đàn ông và người đàn bà chứng tỏ ý thức chống đối mãnh liệt. Trong lúc chế độ phụ quyền bắt buộc người đàn bà phải sống theo đạo tam tòng, mà người đàn bà lại đem những thói hư, tật xấu của người đàn ông ra châm biếm, khác nào họ dùng những mũi tên độc bắn thẳng vào nền phong kiến, đập vỡ những áp bức, bất công mà gia đình Việt Nam đã chịu ảnh hưởng xã hội Trung Quốc.” … “Tình thương của họ đã đặt lên trên quyền điều khiển của mẹ cha. Thực ra, không phải họ bất hiếu, hay quên ơn cha mẹ, mà chính vì họ cảm thấy chế độ phụ quyền đem đến cho đời sống họ những bất công, những thảm trạng mà chính họ phải gánh chịu hậu quả.” [72:205]. …”Tóm lại, giáo lý “tam tòng” của Khổng Mạnh đã bị đổ nát. Dòng lịch sử đấu tranh chống phụ quyền của người đàn bà chiến thắng, phá vỡ hoàn toàn cái hình tượng tôn thờ đàn ông. Trong khi chống phụ quyền, họ đã tỏ ra một thái độ cương quyết cực đoan, trắng trợn. Họ đòi bình quyền với đàn ông về mọi phương diện. Nhưng, cương quyết và cực đoan chưa phải là lợi khí mầu nhiệm trong lịch sử đấu tranh của họ. Điều thành công là họ đã khéo lôi cuốn đàn ông, lớp người tân tiến, cùng đứng chung trong ý thức chống đối của họ để tạo thành một phong trào giải phóng phụ nữ.” [72:220-221]. Nhận định trên đây có nét cực đoan, đã đối lập tuyệt đối người đàn ông với người đàn bà. Về phương pháp tiếp cận nội dung ca dao, không nên coi những nội dung chống lại người đàn ông là của riêng người đàn bà, vì đó, chính xác hơn, là ý thức phê phán của cả cộng đồng đối với những thói hư tật xấu trong xã hội. Mặt khác, chống phụ quyền không phải bằng cách bêu xấu9 Tác giả dùng khống trị chứ không phải là thống trị. 23
24. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đìnhngười đàn ông, cũng không phải bêu xấu người đàn ông là nhằm chống phụquyền. Đúng ra, đó là sự nhìn nhận khách quan của các tác giả dân gian, khôngbị ràng buộc bởi ý thức phụ quyền cực đoan, đã phê phán đúng những biểuhiện xấu xa của một số người đàn ông trong xã hội. Về mặt thi pháp, khôngnên phân tích nhân vật và hình tượng trong tục ngữ, ca dao theo cách phân tíchcủa văn học thành văn, bởi vì văn học thành văn là sản phẩm của một cá nhân,mỗi tác phẩm là một sản phẩm riêng biệt, nhân vật, hình tượng trong đó mangtính độc lập tương đối, có thể được nhìn nhận một cách độc lập; trong khi đótục ngữ, ca dao là tác phẩm của tập thể, thể hiện ý thức của cả một cộng đồng,không những thế lại được hình thành và hoàn thiện trong cả một quá trình lịchsử, cũng vì vậy, từng đơn vị tục ngữ, ca dao dù có khả năng đứng độc lập vẫncó mối quan hệ mật thiết với nhau, muốn nhìn nhận chính xác những vấn đềmà nó đề cập thì phải nghiên cứu một cách tổng thể theo hệ thống. Cho nêncách phân tích nhân vật người đàn bà như trên là không phù hợp. Về ý thức bảo vệ, xây dựng gia đình, các tác giả của Thi ca bình dânViệt Nam viết rằng dân tộc Á Đông coi trách nhiệm đối với gia đình là bổnphận thiêng liêng, ý thức ấy được thể hiện mạnh mẽ trong ca dao: “Về ý thức gia đình họ (tức người bình dân) không cho yếu tố tài năng là căn bản, mà cho yếu tố hòa thuận là quan trọng thì đó chính là một triết lý sâu xa mà chúng ta không thể xem thường.” “Muốn tạo hòa khí gia đình, vợ chồng thường lấy sự nhịn nhục làm đầu.” …”Tuy nhiên, thời xưa dưới chế độ phụ quyền của nền móng phong kiến, người đàn bà bị lắm điều áp chế, thành thử ý thức nhịn nhục chỉ có trong người vợ.” [72:283]. Về những khắc khoải của tình yêu qua tập tục lễ giáo, có những ý chínhnhư sau: “Quyền cha mẹ định đoạt số phận yêu đương của con chính là nguyên nhân phát sinh những tâm hồn khắc khoải của nam nữ thanh niên thời bấy giờ.” [72:336]. “Tóm lại, đối với phong tục lễ giáo, người bình dân bao giờ cũng cố sức bảo vệ và duy trì. Chính nhờ sự bảo vệ và duy trì ấy mà ngày nay nước Việt Nam ta còn được những mầu sắc dân tộc.” [72:342-343]. Về tình vợ chồng, các tác giả viết: “Trước nhất, chúng ta thường thấytrong ca dao Việt Nam, người bình dân quan niệm sự sống chung giữa vợchồng là một cái “đạo”. [72:491]. Các tác giả đã phân tích khá tỷ mỉ các mối 24
25. Phạm Việt Long – 2012 Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình quan hệ của tình vợ chồng khi gần gũi, khi sóng gió, khi xa cách, rồi đi đến kết luận: “Tóm lại, đối với tình vợ chồng, người bình dân gọi là cái đạo. Cái đạo theo quan niệm của họ là bình đẳng, tương thân và chung thủy, khác với đạo “tam tòng” của Khổng Mạnh. Trong lúc đạo “tam tòng” tước đoạt hết quyền của người đàn bà, bắt người đàn bà phải sống lệ thuộc vào đàn ông, tạo trong gia đình quý tộc sự bất bình đẳng, thì đạo vợ chồng của người bình dân ngược lại dùng ý thức sinh hoạt làm nghĩa vụ, khiến cho nền tảng bình đẳng được bảo vệ và duy trì. Và ý thức dân chủ cũng chính là ý thức của gia đình bình dân thuở xưa.” [72:418]. Nói về gia đình nhà nho, Phó giáo sư Trần Đình Hượu đã nhận xét: “Tuy thế, trong những gia đình gia thế, tay hòm chìa khoá lại là ở người đàn bà, người chồng giao hết tiền nong cho vợ và không bao giờ kiểm soát sự chi tiêu của vợ. Người đàn bà được coi là nội tướng, chủ phụ, tuy về danh nghĩa là nghe theo lời chồng, giúp chồng, nhưng thực tế thì là người chủ trì việc nhà.”[57:330-331], “Nhưng quan hệ giữa nam nữ phải hình dung theo quan hệ giữa âm và dương, có chủ có tùng, không thể thiếu nhau và phải dựa vào nhau. Một bên sinh một bên dưỡng, một bên bắt đầu, khởi xướng, một bên hoàn thành, hỗ trợ cho nhau. Cho nên trong nhà đàn ông là chủ, đàn bà phải thuận tùng, nhưng đàn ông phải yêu thương kính nể vợ.”[57:331]. Nhà giáo Nguyễn Nghĩa Dân nghiên cứu một cách tổng thể tục ngữ, ca dao theo phương pháp nghiên cứu văn học dân gian, và đặc biệt là phương pháp quy nạp, để luận bàn về đạo làm người được thể hiện qua tục ngữ, ca dao: “Kinh tế nước ta chủ yếu là nông nghiệp, gia đình vừa là đơn vị lao động vừa là tế bào của tổ chức xã hội, lại đề cao phụ quyền nên ở gia đình có nhiều “công thức” về đạo làm người do giai cấp phong kiến thống trị áp đặt như phụ: từ, tử: hiếu, phu: xướng, phụ: tùy, tam tòng, tứ đức; trọng nam, khinh nữ. Trong gia đình cũng có những thành kiến về “bà gia10 nàng dâu”, về “dì ghẻ con chồng”, về “anh em rể, chị em dâu”, về “ông chú mụ o”… làm cho quan hệ gia đình thêm phức tạp. Gia đình rồi dòng họ trở thành cơ sở vững chắc ở nông thôn, từ đó có những quan hệ hẹp hòi “Một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “Chín đời họ mẹ còn hơn người dưng”. Tục ngữ về đạo làm người một mặt làm nhiệm10 Từ bà gia do tác giả viết theo phương ngữ, có nghĩa là mẹ chồng. 25
26. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình vụ phản ánh, mặt khác đấu tranh chống lại những tập tục thành kiến nói trên” [21:24]. Nói đến giai đoạn thế kỷ XV, tác giả nhận định: “Chính trong thời kỳ này, tục ngữ về đạo làm người chịu ảnh hưởng tư tưởng nhân văn của Nho giáo và Phật giáo có thể thẩm thấu từ trên xuống hoặc hoặc từ ngoài vào do trí thức Nho hoặc Phật (kể cả nho sĩ bình dân) làm chức năng sáng tác, đúc kết hoặc truyền đạt.” [21:25]. “Cho nên, trước kia cũng như hiện nay, trong đạo làm người của Việt Nam vẫn tồn tại những tư tưởng nhân văn của đạo đức Á Đông nhưng điều cần xác định là qua tục ngữ hoặc ca dao về đạo làm người, những tư tưởng đó đã được Việt hóa, hòa vào bản sắc dân tộc, vào tinh hoa văn hóa chung về dựng nước và giữ nước hình thành từ hàng nghìn năm qua.” [21:26]. “Tục ngữ, ca dao Việt Nam về đạo làm người thể hiện không chỉ tư tưởng, đạo đức mà còn thể hiện đậm nét lối sống trong đó nổi lên nếp sống cộng đồng, tình nghĩa của dân tộc với tinh thần khoan dung, gắn bó đoàn kết, tạo nên sức mạnh to lớn để dựng nước và giữ nước.” [21:27]. “Nếp sống cộng đồng, tình nghĩa nói trên của dân tộc ta bắt nguồn từ những điều kiện kinh tế nông nghiệp lâu đời, đồng thời cũng bắt nguồn từ hoàn cảnh xã hội thường xuyên phải đối phó với thiên tai và ngoại xâm”. [21:28]. “Quan hệ dọc trong gia đình là chữ hiếu, quan hệ ngang là chữ đễ, quan hệ vợ chồng là chữ thuận, quan hệ con cháu đối với ông bà tổ tiên là thờ kính, “Uống nước nhớ nguồn”… “Cách xử lý trong gia đình bắt nguồn từ sự thương yêu, hòa hợp.” [21:29]. “…trong quan hệ nếp sống cộng đồng ta cũng có những hạn chế như gia trưởng, cục bộ địa phương, hủ tục, mê tín dị đoan… là những nhược điểm cần loại trừ khỏi đời sống hiện nay.” [21:32]. Tác giả chia tục ngữ, ca dao về đạo làm người thành hai loại: một loại vềlao động, học tập, tu dưỡng rèn luyện bản thân và loại về đạo làm người trongquan hệ gia đình. Tác giả viết: “Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, đạo hiếu được xem như một chuẩn mực bao trùm để định giá đạo đức của một con người.” [21:56]. “Tục ngữ, ca dao cũng không quên phê phán những hiện tượng bất hiếu được lưu truyền như kinh nghiệm xấu…” 26
27. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình “Cùng với quan hệ cha mẹ con cái là quan hệ anh chị em, gần gũi và tình nghĩa. Quan hệ ruột thịt thắt chặt mối quan hệ này…” [21:57]. “Quan hệ vợ chồng chủ yếu là tình yêu và hòa thuận.” [21:58]. Nhìn chung, phần gia đình chỉ là một điểm (6 trang) trong công trìnhkhảo luận trên bẩy chục trang, do đó chỉ nêu được những ý chính mang tínhnhận định khái quát. Tác phẩm còn có phần sưu tập, lựa chọn, giải thích tụcngữ, ca dao Việt Nam về đạo làm người theo 4 chuyên mục, trong đó cóchuyên mục thứ hai là Tục ngữ, ca dao về đạo làm người trong quan hệ giađình. Trong Thế ứng xử xã hội cổ truyền của người Việt châu thổ Bắc Bộqua một số ca dao – tục ngữ, Trần Thúy Anh đề cập đến thế ứng xử theo mộttuyến mở rộng từ gia đình, qua họ hàng – làng xóm – vùng miền – đất nước.Theo định hướng “tiếp cận văn học dân gian từ ngả đường văn hoá học”, tácgiả rút ra mấy thế ứng xử: có một tinh thần nhân văn dân gian, sự ứng biến,tính dung hợp – hoà hợp – khoa học, thế ứng xử nước đôi, lưỡng tri, đa tri,hành vi tình nghĩa, ứng xử bằng tình nghĩa. Điểm lại như trên và so sánh, chúng tôi nhận thấy giữa các nhà nghiêncứu có sự không thống nhất trong nhận định về sự kiềm tỏa của Nho giáotrong đời sống xã hội (một bên coi sự ảnh hưởng của Nho giáo vào xã hội ViệtNam là sâu và rộng, tới tận gốc rễ, một bên coi sự ảnh hưởng ấy bị hạn chếnhiều). Theo chúng tôi, không thể nói như các tác giả Thi ca bình dân ViệtNam: “…nền tảng của triết thuyết Nho giáo ăn sâu vào xã hội Việt Nam, ảnhhưởng vào mọi gia đình Việt Nam đến tận gốc rễ.” [73:197]. Chúng tôi đồngtình với nhận định của Quang Đạm và Phó giáo sư Trần Đình Hượu: QuangĐạm nói rằng sự kiềm tỏa của Nho giáo bị hạn chế khi đi sâu xuống các cơtầng xã hội ở bên dưới. Phó giáo sư Trần Đình Hượu cũng đã viết: “Nho giáoảnh hưởng sâu đến loại gia đình nhà nho, nhưng cũng thấm vào toàn bộ xã hội,tức là ảnh hưởng đến cả gia đình nông dân ở một số mặt. Cả hai loại gia đìnhđó cho ta thấy hình ảnh chung của gia đình truyền thống Việt Nam.” Với những cách chia nhóm phân loại, lược giải trên đây, chúng tôi thấycó hai điểm nổi bật là: – Thứ nhất, về phong tục tập quán Các tác giả nêu những ý chính là: Chế độ phụ quyền rộng rãi. Trọng namkhinh nữ, quyền người chồng bao giờ cũng nặng hơn quyền người vợ. Tục vợlẽ cũng là một tục trái với văn minh đời nay. Thích con trai. Trên kính dướinhường, ở cho trong ấm ngoài êm, lấy hoà mục làm đầu. Dựng gia tộc là mộtviệc làm được chú trọng. Nhưng gia đình quây quần với nhau thì nghĩa khí 27
28. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đìnhhẹp, kiến thức hẹp hòi, không bằng được người có giao tiếp rộng rãi. Phụng sựtổ tiên rất thành kính. Đạo làm con: hiếu thảo – biết kính trọng, thương mến,biết vâng lời, biết phụng dưỡng cha mẹ. Sự báo hiếu cho cha mẹ ở nghi lễ tangma lạc hậu phiền quá thể, ăn uống theo kiểu trả nợ miệng, làm cho nhiều ngườikhổ vì hủ tục. Đạo vợ chồng cư xử với nhau, trọng nhất là hai chữ hoà thuận.Người chồng trọng nhất là phải giữ nghĩa với vợ, mà vợ thì phải giữ tiết hạnhvới chồng. Phụ nữ phải đủ tứ đức mới gọi là hiền, lại có nghĩa tam tòng nữa.Nghĩa vụ của người chồng đối với vợ thì chỉ ăn ở cho đúng đắn, biết thươngyêu, quý trọng vợ, nhất là có tài trí, khiến cho vợ được nương nhờ. Vợ chồngđồng tâm hiệp lực. Gia đình là nền tảng của xã hội, có gia đình mới có xã hội. Ở Việt Nam, gia đình là một nền tảng vững chắc của xã hội. Gia đìnhViệt Nam bao quát rất rộng, mọi người đều có tình thân thuộc với nhau quamọi thế hệ, không kể bởi họ nội, ngoại, nhiều khi bởi cả hai bên nội ngoại. Nhìn tổng quát, tuy chưa đi sâu theo chuyên đề gia đình, nhưng nhữngtác phẩm được dẫn trên đây đều đã nêu lên những đặc trưng chính của gia đìnhngười Việt. – Thứ hai, về nội dung tục ngữ, ca dao Thông qua việc khảo sát tục ngữ, ca dao, các tác giả phân tích về quanniệm, cách ứng xử, những biểu hiện trong phong tục tập quán của người Việtxung quanh vấn đề gia đình trên những nội dung lớn là ảnh hưởng của chế độphụ hệ, phụ quyền và triết thuyết Khổng Mạnh vào gia đình Việt Nam, sựchống lại triết thuyết ấy, những nội dung chung về gia đình, quan hệ cha mẹcon, quan hệ vợ chồng, quan hệ anh chị em. Các tác giả nhận định chế độ phụ quyền có ảnh hưởng đến gia đình ViệtNam, đã tạo điều kiện cho ý thức tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tửtòng tử thâm nhập. Những biểu hiện chính của thái độ chống lại triết thuyết Khổng Mạnh,theo các tác giả, là: + Người phụ nữ chống lại chế độ phụ quyền rất mạnh mẽ, họ mỉa mai,nổi loạn, đạp đổ oai quyền đàn ông. Đem thói hư tật xấu của người đàn ông rachâm biếm, đó cũng là cách tấn công vào chế độ phong kiến. + Tình thương của người phụ nữ đặt lên trên quyền điều khiển của mẹcha, nhưng sự chống đối về ý thức “tại gia tòng phụ” không quyết liệt lắm. + Lôi kéo đàn ông, tạo thành phong trào giải phóng phụ nữ. Về những đặc tính của gia đình người Việt, các tác giả nêu: 28
29. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình + Những nét chung nhất là: Tương thân tương ái. Muốn tạo hoà khí giađình thì cách ứng xử phổ biến là nhịn nhục, nhưng chỉ có phụ nữ nhịn nhục.Không lấy tình yêu trai gái làm yếu tố chính cho tình cảm gia đình, mà lấy tìnhcảm sinh hoạt làm căn bản. Gia đình là cơ sở giáo dục con người. Người dânViệt đã bảo vệ phong tục lễ giáo, nhờ thế mà ngày nay ta còn được những mầusắc dân tộc. Trong truyền thống văn hóa Việt Nam, đạo hiếu được xem nhưmột chuẩn mực bao trùm để định giá đạo đức của một con người. Ngày nay,đạo thờ cúng tổ tiên còn được duy trì và tồn tại chính là nhờ ý thức hiếu đạocủa người bình dân. Gia đình rồi dòng họ trở thành cơ sở vững chắc ở nôngthôn, từ đó có những quan hệ hẹp hòi. Trong đạo làm người của Việt Nam vẫnlưu giữ những tư tưởng nhân văn của đạo đức Á Đông nhưng điều cần xácđịnh là qua tục ngữ, ca dao, những tư tưởng đó đã được Việt hóa, hòa vào bảnsắc dân tộc, góp phần tạo ra tinh hoa văn hóa chung từ thời dựng nước, trải quahàng nghìn năm hình thành và phát triển. Tục ngữ, ca dao Việt Nam thể hiệnkhông chỉ tư tưởng, đạo đức mà còn thể hiện đậm nét lối sống, trong đó nổi lênnếp sống cộng đồng, tình nghĩa của dân tộc với tinh thần khoan dung, gắn bóđoàn kết, tạo nên sức mạnh to lớn để dựng nước và giữ nước. Quan hệ dọctrong gia đình là chữ hiếu, quan hệ ngang là chữ đễ, quan hệ vợ chồng là chữthuận, quan hệ con cháu đối với ông bà tổ tiên là thờ kính, “Uống nước nhớnguồn”. Cách xử lý trong gia đình bắt nguồn từ sự thương yêu, hòa hợp. Tìnhnghĩa là chất keo sơn gắn bó mọi thành viên trong một gia đình, một địaphương và trong cả nước, tạo nên sự cố kết vững chắc. “Nghĩa” là một giá trịđạo đức có trong luân lý Khổng Mạnh nhưng “nghĩa tình” lại là sáng tạo mangbản sắc dân tộc Việt. Tình nghĩa làm cho quan hệ giữa người với người ViệtNam bền chặt trong từng cộng đồng, từ gia đình đến xã hội. Nếp sống cộngđồng, tình nghĩa nói trên của dân tộc ta bắt nguồn từ những điều kiện kinh tếnông nghiệp lâu đời, đồng thời cũng bắt nguồn từ hoàn cảnh xã hội thườngxuyên phải đối phó với thiên tai và ngoại xâm. Trong quan hệ nếp sống cộngđồng Việt cũng có những hạn chế như gia trưởng, cục bộ địa phương, hủ tục,mê tín dị đoan… Cùng với xu hướng phản phong của văn học dân gian ViệtNam, tục ngữ, ca dao về đạo làm người chống lại những thói hư tật xấu,những hành vi vô đạo đức, phê phán những hiện tượng bất hiếu được lưutruyền như kinh nghiệm xấu, cần phải khắc phục… + Về mối quan hệ cha mẹ con: Tục ngữ, ca dao nhấn mạnh quan hệ mẹcon, ghi lại thiên chức và tình cảm của người mẹ. Tục ngữ, ca dao cũng nêuđược truyền thống hiếu thảo của con đối với cha mẹ. Có tác giả khẳng địnhrằng qua tục ngữ, ca dao thấy quyền cha mẹ định đoạt số phận yêu đương của 29
30. Phạm Việt Long – 2012Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đìnhcon. Tục ngữ, ca dao phê phán những biểu hiện tiêu cực trong quan hệ của conđối với mẹ. + Về mối quan hệ vợ chồng: Tục ngữ, ca dao cho ta thấy rằng trong quanniệm của người Việt, chung sống vợ chồng là một đạo lý. Vì vậy quyền hạngiữa người chồng và người vợ không phải chỉ có một chiều mà phải đặt trêntính chất tương ứng và bình đẳng. Quan hệ vợ chồng chủ yếu là tình yêu vàhòa thuận. Người phụ nữ Việt theo chồng, nhưng không theo kiểu “tòng phu”của Nho giáo, không phải theo để hầu hạ, mà để chia sẻ niềm vui, là nghĩa vụtương thân tương ái và bình đẳng xây dựng trên ý thức đồng lao cộng lực,chung thủy, khác với đạo “tam tòng” của Khổng Mạnh. Người phụ nữ ViệtNam thương chồng và theo chồng trên căn bản, không phải bị áp bức, bắtbuộc, mà phát xuất từ tình thương, từ lòng mong mỏi xây dựng gia đình. Trongluật lệ của triều đình phong kiến, có một số trường hợp, như Lê triều hìnhluật có những điều khoản tỏ ra coi trọng phụ nữ. + Về mối quan hệ anh chị em: Trong tục ngữ, ca dao, tình anh em đượcnói tới ít, nhưng cũng thiết tha. Quan hệ anh em có khi bị ý thức tư hữu chiphối, nhưng tình huyết thống vẫn giữ một vai trò thiêng liêng. 4. NHÂN TỐ TÁC GIẢ CỦA TỤC NGỮ, CA DAO VỀ QUAN HỆ GIAĐÌNH. Tác giả của tục ngữ, ca dao chủ yếu là nông dân. Xã hội Việt Nam trướctháng 8 năm 1945 có tới 95% dân chúng mù chữ. Người được học chữ Hán haychữ quốc ngữ thời ấy không nhiều, hay nói đúng là quá ít ở nông thôn ViệtNam. Phương thức sáng tác ngẫu hứng, truyền miệng trong môi trường sinhhoạt dân dã sản sinh những câu ca dao chan chứa tình cảm và hàm chứa nhiềutâm sự. Phương thức canh tác nông nghiệp cổ truyền, những luật tục của họtộc, làng quê trong một xã hội tiến triển chậm chạp là môi trường nẩy sinhnhững câu tục ngữ đúc kết kinh nghiệm của con người đối với tự nhiên, xã hộivà gia đình để truyền lại các các thế hệ kế tiếp. Tuy nhiên, nếu khảo sát hàng nghìn câu ca dao, tục ngữ còn lưu giữ đếnhôm nay, chúng ta dễ dàng nhận ra vai trò của những nhà nho trong việc sángtác và phổ biến những câu ca dao, tục ngữ. Cũng cần nói thêm rằng ở một sốbài viết về tác giả của tục ngữ và ca dao, một số nhà nghiên cứu đã minh chứngvề sự hiện diện của tầng lớp nho sĩ trong các cuộc hát ví phường vải, những bàidiễn ca tế thần, hát trống quân… Cũng không là ngoại lệ trong số 730 câu tục ngữ và 1.179 câu ca dao nóivề gia đình có ghi dấu ấn của nhà nho. Điều này thể hiện ở chỗ họ đã đưanhững câu tục ngữ, thành ngữ của Trung Quốc, những châm ngôn của Nho 30
Ca Dao Tục Ngữ Về Con Trâu
Tuyển chọn những lời ca dao hay về TRÂU Thuyduongnsx tuyển chọn 1. Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu Tham vì ông lão tốt râu mà hiền 2. Chẳng tham ruộng cả ao liền Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ. 3. Trên đồng cạn dưới đồng sâu Chồng cầy vợ cấy con trâu đi nằm 4. Đường về đêm tối canh thâu Nhìn anh tôi tưởng con trâu đang cười 5. Thiệt tình hỏng phải ba hoa hôm qua tui thấy con gà đá trâu….. 6. Gà đá trâu bao lâu mới thắng Trâu đá gà que cẳng con trâu 7. Ai nói chăn trâu là khổ?? Tôi chăn nàng còn khổ hơn trâu. 8. Dù ai buôn đâu bán đâu, Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về. Dù ai buôn bán trăm nghề, Mồng mười tháng tám trở về chọi trâu. 9. Đêm qua kẻ trộm vào nhà, Làm thinh chợp mắt để mà mất trâu. Nằm đây chớ chẳng ngủ đâu, Thức mà giữ lấy con trâu con bò. Nằm đây nào đã ngủ cho, Thức mà giữ lấy con bò con trâu. 10. Nghé ơi ta bảo nghé này Nghé ăn cho béo nghé cày cho sâu. Ở đời khôn khéo chi đâu, Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần. 11. Chăn trâu chả biết mặt trâu Trâu về cầu Cậy biết đâu mà tìm. 12. Ầu ơ… Ví dầu ví dẫu ví dâu Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng 13. Tháng giêng là tháng ăn chơi, Tháng hai trồng đậu, trồng khoai, trồng cà Tháng ba thì đậu đã già Ta đi ta hái về nhà phơi khô Tháng tư đi tậu trâu bò Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm… 14. Trâu ơi ta bảo trâu này, Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta. Cấy cày giữ nghiệp nông gia. Ta đây trâu đấy, ai mà quản công! Bao giờ cây lúa còn bông, thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”. “Con trâu là đầu cơ nghiệp 15. Trâu năm sáu tuổi còn nhanh, Bò năm sáu tuổi đã tranh về già, Đồng chiêm xin chớ nuôi bò, Mùa đông tháng giá, bò dò làm sao! 16. Trên trời có đám mây xanh (4) Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng Ước gì ta lấy được nàng Hà Nội, Nam Ðịnh sửa đàng rước dâu Thanh Hóa cung đốn trầu cau Nghệ An thì phải thui trâu mổ bò Phú Thọ quạt nước hỏa lò Hải Dương rọc lá giã giò gói nem Tuyên Quang nấu bạc đúc tiền Ninh Bình dao thớt Quảng Yên đúc nồi An Giang gánh đá nung vôi Thừ Thiên Đà nẵng thổi xôi nấu chè Quảng Bình Hà Tĩnh thuyề ghe Đồng Nai Gia Dịnh chẻ tre bắc cầu Anh mời khắp nước chư hầu Nước Tây nước Tàu anh gởi thư sang Nam Tào Bắc đẩu dọn đàng Thiên Lôi La Sát hai hàng hai bên 17. Trời mưa trời gió đùng đùng Bố con ông Nùng đi gánh phân trâu Gánh về trồng bí trồng bàu Trồng ngô, trồng lúa, trồng rau, trồng cà. 18. Nam mô Bồ Tát Chẻ lạt đứt tay Đi cày trâu húc Đi súc phải cọc Đi học thày đánh Đi gánh đau vai Nằm dài nhịn đói 19. Nước giữa dòng chê trong, chê đục Vũng trâu đầm hì hục khen ngon 20. Đời vua Thái Tổ – Thái Tông Lúa mọc đầy đồng trâu chẳng buồn ăn. 21. Thất là mất Tồn là còn Tử là con Tôn là cháu Lục là sáu Tam là ba Gia là nhà Quốc là nước Tiền là trước Hậu là sau Ngưu là trâu Mã là ngựa 22. Trai thì cày ruộng khiển trâu Gái thì phải biết bổ cau têm trầu 23. Trăm năm còn có gì đâu Miếng trầu liền với con trâu một vần 24. Trâu bò được ngày phá đỗ Con cháu được ngày giỗ ông 25. Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết 26. Trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm 27. Trâu kia kén cỏ bờ ao Anh kia không vợ đời nào có con Người ta con trước, con sau Thân anh không vợ như cau không buồng Cau không buồng như tuồng cau đực Trai không vợ cực lắm anh ơi Người ta đi đón, về đôi Thân anh đi lẻ, về loi một mình 28. Của chua ai nấy cũng thèm Em cho chị mượn chồng em vài ngày Chồng em đâu phải trâu cày Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm 29. Dầu bông bưởi, dầu bông lài Xức vô tới Tết còn hoài mùi cứt trâu 30. Dù ai buôn bán nơi đâu Mồng Mười, tháng Tám chọi trâu thì về 31. Ðàn đâu mà gảy tai trâu Ðạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi 32. Thương nhau vì nợ vì duyên Trâu đôi chi đó, thổ điền chi đây 33. Nghĩ xa rồi lại nghĩ gần Làm thân con nhện mấy lần vương tơ Về đâu trong đục mà chờ Hoa thơm mất tuyết , nương nhờ vào đâu Số em giàu, lấy khó cũng giàu Số em nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo Phải duyên phải kiếp thì theo Giàu ăn khó chịu, lo gì mà lo 34. Chẳng qua số phận long đong Cột trâu, trâu đứt, cột tròng, tròng trôi. 35. Lao xao gà gáy rạng ngày Vai vác cái cày, tay dắt con trâu. Bước chân xuống cánh đồng sâu Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày. Ai ơi! bưng bát cơm đầy Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng Câu đố: – Bốn ông đập đất, một ông phất cờ, Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân. = con trâu – Vừa bằng cái bát, san sát giữa đồng = vết chân Trâu 36. Ru Con Bao giờ cho đến tháng ba, Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng. Hùm nằm cho lợn liếm lông, Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi. Nắm xôi nuốt trẻ lên mười; Con gà, be rượu nuốt người lao đao. Lươn nằm cho trúm (1) bò vào; Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô. Lúa mạ nhảy lên ăn bò; Cỏ năn (2), cỏ lác (3) rình mò bắt trâu. Gà con đuổi bắt diều hâu; Chim ri đuổi đánh vỡ đầu bồ nông. Chú thích: (1) Trúm : một thứ đó để bắt lươn (2) Cỏ năn : một loài cỏ mọc dưới nước (3) cỏ lác : thứ cỏ xấu 37. Thứ nhất vợ dại trong nhà, Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn. Vợ dại thì đẻ con khôn, Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm. 38. Trâu chậm thời anh bán đi, Dao cùn đánh lại vợ thì làm sao. 39. Trâu anh con cưỡi con dòng, Có con đi trước lòng thòng theo sau. 40. Trâu anh con cưỡi con dòng, Lại thêm con nghé cực lòng thằng chăn. 41. Trâu buộc thì ghét trâu ăn, Quan võ thì ghét quan văn dài quần. 42.Trâu kia kén cỏ bờ ao, Anh kia không vợ đời nào có con. 43.Trâu khoẻ chẳng lọ cày trưa, Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền. 44. Trâu năm sáu tuổi còn nhanh, Bò năm sáu tuổi đã tranh cõi già. Đồng chiêm xin chớ nuôi bò, Mùa đông tháng giá bò dò làm sao? 45. Em như ngọn cỏ phất phơ Anh như con nghé nhởn nhơ giữa đồng 46. Mình rằng mình quyết lấy ta Ðể ta hẹn cưới hăm ba tháng này Hăm ba nay đã đến ngày Ta hẹn mình rày cho đến tháng giêng Tháng giêng năm mới chưa nên Ta hẹn mình liền cho đến tháng hai Tháng hai có đỗ có khoai Ta lại vật nài cho đến tháng tư Tháng tư ngày chẳn tháng dư Ta lại chần chừ cho đến tháng năm Tháng năm là tháng trâu đầm Ta hẹn mình rằng tháng sáu mình lên Tháng sáu lo chửa kịp tiền Bước sang tháng bảy lại liền mưa ngâu Tháng bảy là tháng mưa ngâu Bước sang tháng tám lại đầu trăng thu Tháng tám là tháng trăng thu Bước sang tháng chín mù mù mưa rươi Tháng chín là tháng mưa rươi Bước sang tháng mười đã đãi mưa đông Quanh đi quẩn lại em đã có chồng Như chim trong lồng, như cá cắn câu 47. Ông Giăng mà lấy bà Sao, Đến mai có cưới cho tao miếng giầu. Có cưới thì cưới con trâu, Chớ cưới con nghé nàng dâu không về. 48. Ông giẳng ông giăng, Xuống chơi với tôi, Có bầu có bạn, Có ván cơm xôi, Có nồi cơm nếp, Có nệp bánh chưng, Có lưng hũ rượu, Có chiếu bám đu, Thằng cu xí-xóa, Bắt trai bỏ giỏ, Cái đỏ ẵm em, Đi xem đánh cá, Có rá vo gạo, Có gáo múc nước, Có lược chải đầu, Có trâu cày ruộng, Có muống thả ao, Ông sao trên trời. (Cái này thấy gọi là Ca dao nhi đồng, hihi) 49.Bước sang tháng sáu giá chân, Tháng một nằm trần bức đổ mồ hôi. Con chuột kéo cầy lồi lồi, Con trâu bốc gạo vào ngồi trong cong. Vườn rộng thì thả rau rong. Ao sâu giữa đồng, vãi cải làm dưa. Đàn bò đi tắm đến trưa, Một đàn con vịt đi bừa ruộng nương. Voi kia nằm ở gặm giường, Cóc đi đánh giặc bốn phương nhọc nhằn. Chuồn kia thấy cám liền ăn, Lợn kia thấy cám nhọc nhằn bay qua. Trời mưa cho mối bắt gà, Thòng-đong cân-cấn đuổi cò lao xao. Lươn nằm cho trúm bò vào, Một đàn cào cào đuổi bắt cá rô. Thóc giống cắn chuột trong bồ, Một trăm lá mạ đuổi vồ con trâu. Chim chích cắn cổ diều hâu, Gà con tha quạ biết đâu mà tìm. Bong bóng thì chìm, gỗ lim thì nổi. Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai. Hòn đá giẻo dai, hòn xôi rắn chắc. Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi. Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú. Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu. Hay cắn thì trâu, hay cày thì chó. 50. Nam mô bồ tát, Chẻ lạt đứt tay, Đi cày trâu húc, Đi xúc phải cọc, Đi học thầy đánh, Đi gánh đau vai, Nằm dài nhịn đói. 51. Con kiến mày kiện củ khoai, Mày chê tao khó lấy ai cho giầu. Nhà tao chín đụn mười trâu, Lại thêm ao cá bắt cầu rửa chân. 52. Công anh chăn nghé đã lâu Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày?
53. Cưới em có cánh con gà, Có dăm sợi bún, có và hạt xôi. Cưới em còn nữa anh ơi! Có một đĩa đậu hai môi rau cần. Có xa dịch lại cho gần, Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi. Hay là nặng lắm anh ơi! Để em bớt lại một môi rau cần. Cưới nàng anh toan dẫn voi, Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn. Dẫn trâu sợ họ máu hàn, Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân. Miễn là có thú bốn chân, Dẫn con chuột béo mời dân mời làng. – Chàng dẫn thế em lấy làm sang Nỡ nào em lại phá ngang như là… Người ta thách lợn thách gà, Nhà em thách cưới một nhà khoai lang Củ to thì để mời làng, Còn như củ nhỏ, họ hàng ăn chơi. Bao nhiêu củ mẻ chàng ơi! Để cho con trẻ ăn chơi giữ nhà. Bao nhiêu củ rím củ hà, Để cho con lợn con gà nó ăn. 54. Ầu ơ… Ví dầu ví dẫu ví dâu Ví qua ví lại ví trâu vô chuồng 55. Anh về bán ruộng cây da Bán cặp trâu già, mới cưới đặng em 56. 17. Hò ơ.. (chớ) Bớ này anh nó ơi Số phận em giao phó cho trời xanh Lấy anh em không lấy, Nhưng dạ cũng không đành làm ngơ Vốn em cũng chẳng bơ thờ Em đã hằng chọn trong lóng đục, Nhưng vẫn còn chờ nợ duyên Vốn em muốn lấy ông thầy thuốc cho giàu sang, Nhưng lại sợ ổng hay gia hay giảm Em muốn lấy ông thầy pháp cho đảm, Nhưng lại sợ ổng hét la ghê gốc Em muốn lấy chú thợ mộc, Nhưng lại sợ chú hay đục khoét rầy rà Em muốn lấy anh thợ cưa cho thật thà, Nhưng lại sợ trên tàn dưới mạt Em muốn lấy người hạ bạc, Nhưng lại sợ mang lưới mang chài Em muốn lấy anh cuốc đất trồng khoai, Nhưng lại sợ ảnh hay đào hay bới Em cũng muốn chọn anh thợ rèn kết ngỡi, Nhưng lại sợ ảnh nói tức nói êm Bằng lấy anh đặt rượu làm men, Thì lại sợ ảnh hay cà riềng cà tỏi Em muốn lấy ông nhạc công cho giỏi, Nhưng lại sợ giọng quyển giọng kèn Em muốn lấy thằng chăn trâu cho hèn, Nhưng lại sợ nhiều điều thá ví Em muốn lấy anh lái buôn thành thị, Nhưng lại sợ ảnh kêu mắc rẻ khó lòng Em muốn lấy anh thợ đóng thùng, Nhưng lại sợ ảnh kêu trật niền trật ngổng Em muốn lấy ông Hương ông Tổng, Nhưng lại sợ việc trống việc gông Em muốn lấy anh hàng gánh tay không, Nhưng lại sợ đầu treo đầu quảy Em muốn lấy chú hàng heo khi nãy, Nhưng lại sợ chú làm lộn ruột lộn gan Em muốn lấy anh thợ đát thợ đan, Nhưng lại sợ ảnh hay bắt phải bắt lỗi Em muốn lấy anh hát bè hát bội, Nhưng lại sợ giọng rỗi giọng tuồng Em muốn lấy anh thợ đóng xuồng, Nhưng lại sợ ảnh hay dằn hay thúc… Hò ơ.. (chớ) Mấy lời trong đục chẳng dám nói ra Có thầy giáo tập dạy trong làng xa, hay dạy hay răn So đức hạnh chẳng ai bằng, lại con nhà nho học Sử kinh thầy thường đọc, nên biết việc thánh hiền Gặp nhau em kết liền, không chờ chẳng đợi… (ờ) Hò ơ.. (chớ) Không chẳng chờ chẳng đợi phỉ nguyền phụng loan 57. Hút sách là chuyện chẳng lành Trâu bò vườn ruộng hoá thành khói mây
58. Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà Cả ba việc ấy đều là khó thay. 59. Mười năm cắp sách theo thày Năm thứ mười một vác cày theo trâu. 60. Bốn ông đập đất, một ông phất cờ, Một ông vơ cỏ, một ông bỏ phân. 61.Ai cũng gặt lúa đỏ đuôi Chàng về mà đập, mà phơi kịp ngày Ai mà giã gạo ba chày Giã sao cho trắng, gửi ngay cho chàng Sẵn tiền mua bạc mua vàng Sẵn tiền sắm áo cho chàng trẩy kinh Sáng trời chàng mới tập binh Em ngồi vò võ, một mình em lo Ruộng nương không ai cày cho Trâu bò, gà, lợn em lo dường nào! Ruộng người cày cấy xôn xao Ruộng nhà cỏ mọc lên cao lồng ngồng Người ta có vợ có chồng Cỏ cao, mạ úa nhưng lòng vẫn vui Nhà ta chỉ có em thôi Ruộng cạn mạ úa em ngồi em lo 62.Ai ơi uống rượu thì say Bỏ ruộng trâu cày bỏ giống ai gieo. 63.Anh đánh thì tôi chịu đòn Tánh tôi hoa nguyệt mười con chẳng chừa Anh đánh thì tôi xin thưa Tánh tôi hoa nguyệt chẳng chừa được đâu Ăn quen chừa được chẳng lâu Lệ làng làng bắt mất trâu mặc làng 64.Ba vợ bảy tám nàng hầu Đêm nằm chuồng trâu, gối đầu bằng chổi. 65.Ăn thuốc bán trâu ăn trầu bán ruộng 66.Anh em bất nghĩa chi khèo Anh dữ như mèo tôi lại như trâu 67.Bé ăn trộm gà Già ăn trộm trâu Lâu nữa làm giặc 68.Cầm trâu cầm áo cầm khăn Cầm dây lưng lụa, xin đừng cầm em ! 69.Cái bống mặc xống ngang chân Lấy chồng Kẻ Chợ cho gần, xem voi Trèo lên trái núi mà coi Thấy ông quản tượng cõi voi đánh cồng Túi vóc mà thêu chỉ hồng Têm trầu cánh phượng cho chồng đi thi Một mai chồng đỗ, vinh quy Võng anh đi trước, em thì võng sau Tàn quạt, hương án theo hầu Vinh quy bái tổ, giết trâu ăn mừng! 70.Cái kiến mà kiện củ khoai Mày chê tao khó, lấy ai cho giầu Nhà tao chín đụn mười trâu Lại thêm ao cá, bắc cầu rửa chân Cầu nầy là cầu ái ân Một trăm con gái rửa chân cầu nầy Có rửa thì rửa chân tay Chớ rửa lông mày chết cá ao anh Nhà anh có một cây chanh Nó chửa ra nhành nó đã ra hoa Nhà anh có một mụ già Thổi cơm không chín, quét nhà chẳng nên Ăn cỗ khì đòi ngồi trên Mâm son bát sứ đem lên hầu bà. 71.Bong bóng thì chìm gỗ lim thì nổi Đào ao bằng chổi, quét nhà bằng mai Hòn đá dẻo dai, hòn xôi rắn chắc Gan lợn thì đắng, bồ hòn thì bùi Hương hoa thì hôi, nhất thơm thì cú Đàn ông to vú, đàn bà rậm râu Hay sủa thì trâu, hay cày thì chó… (hình như vẫn còn tiếp thì phải) 72.Chẳng tham lắm ruộng nhiều trâu Tham vì ông lão tốt râu mà hiền Chẳng tham ruộng cả ao liền Tham vì cái bút cái nghiên anh đồ. Chẳng tham nhà ngói ba tòa Tham vì một nỗi mẹ cha hiền lành. 73.Chồng dữ thì em mới rầu Mẹ chồng mà dữ giết trâu ăn mừng 74.Chùn đùi, thắt quản, ngắn đuôi Sừng to móng hến thì nuôi đúng rồi 75.Cao đầu thấp hậu thì tậu liền tay 76.Cao vây, nhỏ sống thì rộng đường cày 77.Chết lỗ chân trâu 78.Có ăn có chọi mới gọi là trâu 79.Có xa dịch lại cho gần Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi Hay là nặng lắm anh ơi! Để em bớt lại một môi rau cần. Cưới nàng anh toan dẫn voi Anh sợ quốc cấm nên voi không bàn. Dẫn trâu sợ họ máu hàn Dẫn bò sợ họ nhà nàng co gân. Miễn là có thú bốn chân Dẫn con chuột béo mời dân mời làng. 80.Con cá rô thia ẩn bóng chân trâu Một trăm quân tử tới câu cũng chẳng màng.
81.Con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu 82.Con tằm nó ăn lá dâu Có khi ăn mất cả trâu lẫn bò 83.Con vợ khôn lấy thằng chồng dại Như bông hoa lài cặm bãi cứt trâu 84.Công anh chăn nghé đã lâu Bây giờ nghé lớn thành trâu ai cày 85.Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi 86.Em thì canh cửi việc nhà Nuôi anh ăn học đăng khoa bảng vàng Trước là vinh hiển tổ đường Bõ công đèn sách lưu hương con nhà Rước vinh quy về nhà bái tổ Ngả trâu bò làm lễ tế vua Họ hàng ăn uống say sưa Hàng Tổng hàng Huyện mừng cho ông Nghè 87.Dưa gang một chạp thì trồng Chiêm cấy trước tết thì lòng đỡ lo Tháng hai đi tậu trâu bò cày đất cho ải mạ mùa ta gieo 88.Được voi to trâu bò chẳng kể Hoa lan hoa huệ mới kể là hoa Một lời đã trót nói ra Dẫu cho bốn ngựa khó mà đuổi theo 89.Em là con gái nhà giàu Mẹ cha thách cưới ra màu sinh sao Cưới em trăm tấm gấm đào Một trăm hòn ngọc, hai mươi tám ông sao trên trời Tráp tròn dẫn đủ trăm đôi Ống thuốc bằng bạc, ống vôi bằng vàng Sắm xe tứ mã đem sang Để quan viên họ nhà nàng đưa dâu Ba trăm nón Nghệ đội đầu Một người một cái quạt Tàu thật xinh Anh về sắm nhiễu Nghi Ðình May chăn cho rộng ta mình đắp chung Cưới em chín chĩnh mật ong Mười cót xôi trắng, mười nong xôi vò Cưới em tám vạn trâu bò Bảy vạn dê lợn, chín vò rượu tăm Lá đa mặt nguyệt hôm rằm Răng nanh thằng Cuội, râu hàm Thiên Lôi Gan ruồi mỡ muỗi cho tươi Xin chàng chín chục con dơi góa chồng Thách thế mới thỏa trong lòng Chàng mà lo được thiếp cùng theo chân 90.Gió nam ào ạt gốc cây nằm mát Chẻ lạt đứt tay, đi cày trâu húc Đi xúc phải cọc, đi học thầy đánh Đi gánh đau vai, nằm dài nhịn đói
91. Vợ bé nghé con Sẩy đàn tan nghé Hòn đá cheo leo, Con trâu trèo, con trâu trợn Con ngựa trèo, con ngựa đổ. Anh thương em lao khổ Tận cổ chí kim, Anh thương em khó kiếm khôn tìm. Cây kim luồn qua sợi chỉ, Sự bất đắc dĩ phu mới lìa thê, Nên hay không nên, anh ở em về, Đừng giao, đừng kết, đừng thề mà vương. 92.Lạc đường nắm đuôi chó Lạc ngõ nắm đuôi trâu 93.Lao xao gà gáy rạng ngày Vai vác cái cày, tay dắt con trâu. Bước chân xuống cánh đồng sâu Mắt nhắm mắt mở đuổi trâu đi cày Ai ơi! bưng bát cơm đầy Nhớ công hôm sớm cấy cày cho chăng? 94.Làm ruộng có trâu làm giầu có vợ Làm ruộng có trâu làm dâu có chồng Một huyền hai lái chẳng xong Một chĩnh hai gáo đừng nong tay vào 95.Lộn con toán bán con trâu 96.Mật ngọt rớt xuống thau đồng Những lời anh nói cho lòng em say Một trâu anh sắm đôi cày Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia! Chàng ơi! chàng cho em ra Nhẽ đâu một ổ đôi gà ấp chung. 97.Một rằng mình quyết lấy ta Ta về bán cửa bán nhà mà đi Ta về bán núi Ba Vì Bán chùa Hương Tích, Phật đi làu làu Ta về bán hết ngựa trâu Bán hột thầu dầu, bán trứng gà ung Bán ba mươi sáu Thổ công Bán ông Hành Khiển, vợ chồng Táo Quân Bán từ giờ Ngọ giờ Dần Giờ Tí giờ Sửu giờ Thân giờ Mùi Ta về bán cả que cời Bán tro đun bếp bán trăm khêu đèn Ta về bán trống bán kèn Có gì bán hết, lấy tiền cưới em 98.Nghé hành nghé hẹ Có khôn theo mẹ Có khéo theo đàn Chớ có chạy quàng Có ngày lạc mẹ Việc nhẹ phần con Kéo nỉ kéo non Kéo đến quanh tròn Mẹ con ta nghỉ 99.Trăm năm cơ hội tình cờ, Đàn cầm anh gãy, câu thơ anh đề. Muốn cho thuận nẻo đi về, Anh sang làm rể, em về làm dâu. Số giàu lấy khổ cũng giàu, Số nghèo chín đụn mười trâu cũng nghèo. Phải duyên phải kiếp thì theo, Khuyên em chớ nghĩ giàu nghèo làm chi. Em ơi! chữ vị là vì, Chữ dục là muốn, chữ tùy là theo, Ta đã yêu nhau tam tứ núi cũng trèo, Thất bát giang cũng lội, tam thập đèo cũng qua. 100.Trời mưa lâm râm Cây trâm có trái Con gái có duyên Đồng tiền có lỗ Bánh tổ thì ngon Bánh dòn thì béo Cái kéo thợ may Cái cày làm ruộng Cái xuổng đắp bờ Cái lờ đơm cá Cái ná bắn chim Cái kim may áo Cái giáo đi săn Cái khăn bịt đầu Cái cầu đi chợ Có vợ đàn ông Có chồng con gái Cái trái mù u Ông cu đi câu Để trâu ăn lúa Bắt được chặt đầu, chặt đầu đuôi Còn hai con mắt đem nuôi mẹ già
Tướng Trâu
Cầm trâu cầm áo cầm khăn Cầm dây lưng lụa, xin đừng cầm em ! Đàn đâu mà gảy tai trâu Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi Chồng em đâu phải trâu cày Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm Trâu gầy cũng tầy bò giống Ghi Chú: * Trâu gầy vẫn mạnh hơn bò Mắt bánh rán, Trán bánh chưng Lưng tôm càng Ghi Chú: * Trâu có mắt lớn, cái trán vuông vức như cái bánh chưng và lưng không oằn là trâu khỏe mạnh Đã có sừng thì đừng hàm trên Ghi Chú: * Trâu không có răng hàm trên Tai lá mít đít lồng bàn Ghi Chú: * Trâu có tai lớn và mông bự là trâu tốt Vành mồm trắng, mắt tai to Hễ thưa lông bụng, móng hài cũng mua Ghi Chú: * Trâu thưa lông bụng và vành mồm trắng mới là trâu có tướng tốt Sà sừng mắt lại nhỏ con Vụng giàn chậm chạp ai còn nuôi chi Ghi Chú: * Trâu có cặp sừng sệ xuống và mắt nhỏ thì chậm chạp
Vai nồi đồng, mông cối lỗ Ghi Chú: * Vai to tròn, mông lớn là trâu tốt Sừng to móng hến thì nuôi phải rồi Ghi Chú: * Trâu có sừng to, mở Rộng là trâu đắc dụng Tam tinh khoáy sọ thì chừa Đốm đuôi nát chủ thì đưa vào nồi Ghi Chú: * Trâu có khoáy sọ và đuôi có đốm là trâu độc dễ gây tai họa nên giết thịt Làm ruộng có trâu làm giầu có vợ Làm ruộng có trâu làm dâu có chồng Một huyền hai lái chẳng xong Một chĩnh hai gáo đừng nong tay vào Lúa Đồng Ngâu, trâu Yên Mỹ Mất trâu mất ruộng không màng Mất cây cuốc mục ra làng kiện thưa Mất trâu thì lại tậu trâu Những quân cướp nợ có (chẳng) giầu hơn ai ? Một trâu anh sắm đôi cày Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia Chàng ôi! chàng cho em ra Nhẽ đâu một ổ hai gà ấp chung ? Một trâu anh sắm hai cày Một chàng hai thiếp có ngày oan giạ Chả yêu thì bỏ nhau ra Làm chi một ổ hai gà ấp chung. Yếu trâu cũng bằng bò khỏe Con trâu ăn cỏ đất bằng Uống nước bờ ao Hồi nào mầy ở với tao Đến khi mầy chết Tao cầm dao xẻo thịt mầy Thịt mầy nấu cháo linh binh Da mầy bịt trống tụng kinh trong chùa Sừng mầy tao tiện con cờ Cán dao, cán mác, lược dầy lược thưa Mua trâu cưới vợ làm nhà Cả ba việc ấy đều là khó thay Muốn giầu nuôi trâu nái Muốn lụi bại nuôi chim bồ câu. Ngày xưa Ninh Thích chăn trâu Mà rồi công ấn công hầu trâu ơi ! Ngày nay mình nghé ta ngồi Mai sau ta có một thời hiển vinh ? Trâu he cũng bằng bò khỏe Ghi Chú: * Trâu he là trâu nghé hay trâu còn non Lang đuôi thì bán, lang trán thì cày Ghi Chú: * Trâu có hoa trên trán thì giữ để cày ngược lại đuôi có hoa thì đem bán Phù thủy, thầy bói, lái trâu Nghe ba anh ấy đầu lâu không còn Trâu ác vạc sừng Ghi Chú: * Trâu ác hay mài sừng để chiến đấu Tậu trâu lấy vợ làm nhà Trong ba việc ấy lọ là khó thay Ruồi lằn chọi với bò trâu Đàn gà quật với diều hâu mấy lần Thật thà cũng thể lái trâu Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng Trâu tóc chóp, bò mũ mấn Ghi Chú: * Trâu có tóc chóp thì tốt, ngược lại bò có tóc chóp thì xui xẻo Trâu ra, mạ vào Ghi Chú: * Cần cấy ngay sau khi cày ruộng xong Trâu kia (già) kén (cắn) (ăn) cỏ bờ ao Anh kia không vợ đời nào có con Người ta con trước, con sau Thân anh không vợ như cau không buồng Cau không buồng như tuồng cau đực Trai (Anh) không vợ cực lắm anh ơi Người ta đi đón, về đôi Thân anh đi lẻ, về loi một mình Trâu năm sáu tuổi còn nhanh Bò năm sáu tuổi đã tranh về già Trâu ơi ta bảo trâu này Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta Cấy cày vốn nghiệp nông gia Hai sương một nang)Tắ đây trâu đấy ai mà quản công Bao giờ cây lúa còn bông Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn Trâu ai buộc ngõ ông Cai Hoãn ai mà lại đeo tai bà Nghè Ngựa ai buộc ngõ ông Nghè Gà ai gáy ở đầu hè ông Cai Ghi Chú: * Nghè là người đỗ tiến sĩ thời xưa; Hoãn là đôi bông tai Trâu bò ở với nhau lâu quen chuồng quen chỏi Người ở với nhau lâu, inh ỏi đủ điều Trâu buộc thì ghét trâu ăn Quan võ thì ghét quan văn dài quần Trai thì cày ruộng khiển trâu Gái thì phải biết bổ cau têm trầu Ghi Chú: * Tục ăn trầu có ở hầu hết các nước Đông Nam Á; Xem: Trầu Cau Trong Ca Dao Trâu đồng ta ăn cỏ đồng ta (*) Tuy rằng cỏ cụt nhưng mà cỏ thơm Ghi Chú: * Hoặc: Trâu ta ăn cỏ đồng ta Trâu khoẻ chẳng lo cày trưa Mạ già ruộng ngấu không thua bạn điền. Trâu kia chết để bộ da Người chết để tiếng xấu xa muôn đời Cao vây, dậy tiền, sâu vai, khai hậu Ghi Chú: * Hai chân sau mở rộng gọi là khai hậu Sừng cánh cắt, mắt ông voi Ghi Chú: * Cặp sừng to lớn như cánh chim cắt là trâu tốt Ăn thịt trâu không tỏi Như ăn gỏi không rau mơ Trâu quá sá, mạ quá thì Ghi Chú: * Quá sá là quá già, không còn khả năng để cày cấy Trâu dê chết để tế ruồi Sao bằng khi sống cơi suồi kính dâng Lại thêm tiền thấp hậu cao Ghi Chú: * Hai vai trước thấp mà mông cao, con trâu đi chúi là khôphải trâu tốt Cao vây, nhỏ sống thì rộng đường cày Ghi Chú: * Sống lưng phải vừa phải nhưng nổi cao thì trâu cày khỏe Đầu thanh cao, rào thấp hậu Chẳng tậu thì sao Được voi to trâu bò chẳng kể Hoa lan hoa huệ mới kể là hoa Một lời đã trót nói ra Dẫu cho bốn ngựa khó mà đuổi theo (*) Ghi Chú: * Nguyên thủy: Nhất ký ngôn xuất tứ mãi nan truy Ăn thuốc bán trâu ăn trầu bán ruộng Trăm trâu trăm bó cỏ Trâu đứng ăn năm Trâu nằm ăn ba Nghé hoa ba con ăn một (*) Ghi Chú: * Câu đố toán học – Có bản khác: Con ở đàng xa một bó ba con Chưa được thì khấn một trâu Được rồi thì có trâu đâu cho bà Anh có sừng trâu bạc Tôi có gạc (có giác) trâu đen Bụng trâu làm sao bụng bò làm vậy Buộc trâu trưa nát chuồng Ăn thịt trâu không có tỏi Như ăn gỏi không có lá mơ Béo như trâu chương Đầu trâu mặt ngựa Chăn trâu chả biết mặt trâu Trâu về cầu Cậy biết đâu mà tìm. Chị bị cứt trâu Chị em dâu nấu đầu trâu thủng nồi Chết đuối vũng trâu đằm Anh Ngữ Tương đương: * To cut one’s throat with feather OR An unfortunate man would be drowned in a tea cup) Chết lỗ chân trâu Tương Đương với Anh Ngữ : To cut one’s throat with feather OR An unfortunate man would be drowned in a tea cup Đàn gảy tai trâu (Đàn khảy tai trâu) Đầu nheo còn hơn phèo trâu Đến đâu chết trâu đến đấy Đi sông đi biển không chết chết ở lỗ chân trâu Làm cực như trâu Tương Đương với Anh Ngữ : To work as hard as a horse Chín đụn mười trâu chết cũng hai tay buông xuôi (cắp đít) Tương Đương với Anh Ngữ : A handfull of ashes is all than remains of the greatest. OR: It will all be the same a hundred years hence Có ăn có chọi mới gọi là trâu Gái mười bảy bẻ găy sừng trâu Con gái mười bảy bẻ gãy sừng trâu Con trâu là đầu cơ nghiệp Cống làng Tô trâu bò làng Hệ Dắt trâu chui qua ống Đi cày trâu hút đi xúc phải cọc Trâu thì kho bò thì tái Muống thì vừa cải thì nhừ Đuôi chùng quá gối thì nào được đâu! Ghi Chú: * Trâu có đuôi dài quá cũng không đắc dụng Thứ nhất bó rễ, thứ nhì trễ cành Trâu cổ cò, bò cổ vại Ghi Chú: * Trâu phải có cổ dài, cổ bò lớn và ngắn thì tốt Giờ trâu về chuồng Hùng hục như trâu hút mả Hùng hục như trâu lăn Kẻ trâu trắng người trâu đen Khấn trâu trả lễ bò Khỏe như trâu Không có trâu bắt bò đi đẩm Làm kiếp trâu ăn cỏ làm kiếp chó ăn dơ Làm kiếp trâu kéo cày trả nợ Lấm như trâu đầm Lắm rận thì giàu lắm trâu thì nghèo Làm rể chớ xào thịt trâu làm dâu chớ đồ xôi lại Làm ruộng không trâu làm giàu không thóc Lắm ruộng thì thâu lắm trâu thì bán Làm thân trâu kéo cày trả nợ Làm thân trâu ngựa Lâu ngày cứt trâu hóa bùn Lộn con toán bán con trâu (cả nhà) Lộn thừng lộn chão quá hơn lộn trâu cày Lòng trâu dạ chó Máu đâu trâu đó Máu trâu cũng như máu bò Nằm trâu thổi sáo Một con tằm cũng phải hái dâu một con trâu cũng phải đi chăn Mua trâu bán chả Mua trâu lựa nái cưới gái lựa dòng Mua trâu vẽ bóng Muốn giàu nuôi trâu cái Nai lưng trâu Nhịn thuốc mua trâu nhịn trầu mua ruộng Tương Đương với Anh Ngữ : Take care of the pence and the pounces will take care of themselves Phản chủ đầu trâu Ăn cơm nhà Phật, Ðốt trâu nhà chùa Phản chủ đầu trâu Ăn cơm nhà Phật Đốt trâu nhà chùa Ruộng sâu trâu nái Ruộng sâu trâu nái không bằng con gái đầu lòng Thui trâu nửa mùa hết rơm Tham bong bóng bỏ bọng trâu Thật thà lái buôn (trâu) Vễnh sừng, tóc chớp cả nhà mang tai Ghi Chú: * Trâu loại nầy dữ, hay nổi khùng như trâu điên dễ gây tai vạ Sông Sâu (hoắm) không chết, chết vũng trâu đầm Tương Đương với Anh Ngữ : To cut one’s throat with feather OR An unfortunate man would be drowned in a tea cup Thà chết vũng trâu hơn chết khu đĩa đèn Trật con toán bán cái nhà (con trâu) Trâu béo kéo trâu gầy Trâu bò được ngày phá đỗ Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết Trâu buộc ghét trâu ăn Trâu cày ngựa cỡi (ngựa cưỡi) Trâu chậm uống nước đục (nước dơ) Trâu ngơ ăn cỏ héo Tương Đương với Anh Ngữ: He that comes first to the hill may sit where he will. OR: Delays are dangerous Trâu chết bò cũng lột da Trâu chết chẳng khỏi rơm Trâu chết để da người ta chết để tiếng Trâu chết mặc trâu bò chết mặc bò Củ tỏi giắt lưng Trâu cho ra trâu cho Bò bán ra bò bán Trâu cột ghét trâu ăn Trâu đạp cũng chết voi đạp cũng chết Trâu dong bò dắt Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy Trâu già đâu (không) nệ dao phay Trâu hay ác thì trâu vạt sừng Trâu ho cũng bằng bò khỏe Trâu lấm vẫy quàng Trâu lành (Trâu sống) không ai mà cả Trâu ngã nhiều gã cầm dao Trâu leo cày muỗm Trâu ngã lắm kẻ cầm dao Trâu nghiến hàm bò bạch thiệt Trâu ta ăn cỏ đồng ta Trâu teo heo nở Trâu thịt thì gầy trâu cày thì béo Trâu tìm cọc cọc chẳng tìm trâu Trâu tìm cột cột không tìm trâu Trâu toi thì bò ngã Trâu trắng đi đâu mất mùa tới đấy Trâu trắng trâu đen Đốm đầu thì nuôi, đốm đuôi thì thịt Thân trâu trâu lo thân bò bò liệu Tiếc thịt trâu toi Trai mười bảy bẻ gãy sừng trâu Trăm trâu cũng một công chăm Vác bổi thui trâu Ghi Chú: Ý nói không liệu sức mình; Tương đương với câu: Liệu cơm gắp mắm Vô một gà ra phải ba trâu Voi địt hơn trâu rống Khoáy sừng, khoáy sọ, khoáy tai Tam tinh, chằng ách làm tai chúa nhà Đầu gà còn hơn đuôi phượng (đuôi trâu) Tương Đương với Anh Ngữ : Better be the head of a dog than a tail of a lion Làm chủ một nơi còn hơn làm tôi tớ kẻ khác. Dùng dao mổ trâu (mổ bò) cắt tiết gà Tương Đương với Anh Ngữ : To use a steam hammer to crack nuts Xử dụng không đúng chỗ Chung nốt làm cầu, chung trâu làm trống Chỉ đường cho Mọi trộm trâu Trâu hoa tai, bò gai sừng Ghi Chú: Trâu có hoa tai cũng như bò có gai sừng là hai con vật không nên nuôi Thưa lông, mọng da, mõm giỏ Ghi Chú: * Trâu lông thưa, miệng rộng mõm dài, miệng như cái giỏ mới tốt Trâu nghiến hàm, bò bạch thiệt Ghi Chú: * Trâu nghiến hàm chặt lại là trâu xấu Hàm nghiến, lưỡi đốm hoa cà Vểnh sừng tóc chóp, cửa nhà mang tai Ghi Chú: * Lưỡi trâu có đốm hoa cà là trâu tốt Mua trâu xem vó, lấy vợ xem nòi Mua trâu xem vó, mua chó xem chân Chùng đùi, thắt quản, ngắn đuôi Sừng to móng hến thì nuôi đúng rồi Trâu đen ăn cỏ, trâu đỏ ăn gà Ghi Chú: * Châm biếm người lái máy cày phải được ăn sang, nông dân phải chịu tốn kém Trâu ác là trâu vạc sừng Bò ác là bò còng lưng méo sườn Lọ đầu thì bán Lọ trán thì nuôi Lọ đuôi thì thịt
Post ngày: 10/05/17
Ca Dao Tục Ngữ Về Hải Phòng
Hải Phòng có bến Sáu Kho Có sông Tam Bạc, có lò Xi măng
Đứng trên đỉnh núi ta thề Không giết được giặc, không về Núi Voi
Thuốc lào Vĩnh Bảo Chồng hút, vợ say Thằng con châm đóm Lăn quay ra giường
Dù ai buôn đâu, bán đâu Mùng chín tháng tám chọi trâu thì về Dù ai bận rộn trăm nghề Mùng chín tháng tám nhớ về chọi trâu
Sấm động biển Đồ sơn Vác nồi rang thóc Sấm động bên sóc đổ thóc ra phơi
Nhất cao là núi U Bò Nhất đông chợ Giá, nhất to sông Rừng (Thủy Nguyên)
Chín con theo mẹ ròng ròng. Còn một con út nẩy lòng bất nhân (Địa hình Đồ Sơn ví như một con Rồng đang chầu về viên ngọc là Hòn Dáu. Sách cổ gọi núi Đồ Sơn là Cửu Long – chín rồng với câu ca trên. Con út ở đây là núi Độc, đứng riêng hẳn ra ở đầu bán đảo. Thực ra có tới 15 điểm cao từ 25m đến 129m trong dãy núi này, cao nhất là Đồn cao. Trên đỉnh núi còn những dãy tường thành, dấu vết đồn luỹ của Phạm Đình Trọng, một tướng Chúa Trịnh đi đàn áp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu, thế kỷ 18)
Đầu Mè, đuôi Úc Giữa khúc Nụ Đăng (Tiên Lãng)
My Sơn bắc ngật văn chương bút Triều thủy nam hồi phú quí nguyên
Dịch nghĩa:
“Núi My Sơn phía bắc tạo thế văn chương Ngọn triều phía nam đem lại nguồn giàu có”
My Sơn là xã ở Thủy Nguyên.
— Theo haiphong.net.vn —
Sâu nhất là sông Bạch Đằng Ba lần giặc đến, ba lần giặc tan
Cá rô đầm Sét Nước mắm Vạn Vân Cam Đồng Dụ Cau Văn Ú Vú Đồ Sơn
(Câu cổ đó)
Văn học mình thấp kém không tìm được nhiều bài cho lắm nhưng nay cũng mạng phép đóng góp 1 vài bài , có gì xin các anh chị đóng góp ý kiến :
1) Đống Đa ghi để lại đây
Bên kia Thanh Miếu bên này Bộc An
2) Sâu nhất là sông Bạch Đằng
Ba lần giặc đến ba lần giặc tan
Cao nhất là núi Lam Sơn
Có ông Lê Lợi trong ngàn tiến ra
3) Vải Quang , hung Láng , ngổ Đầm
Cá rô Đầm Sét , sâm cầm Hồ Tây
4) Đồng Đăng có phố Kì Lừa
Có nàng Tô Thị , có chùa Tam Thanh
5) Đông Ba Gia Hội hai cầu
Ngó lên Diệu Đế bớn lầu hai chuông
6) Ai về đến huyện Đông Anh
Ghé thăm phong cảnh Loa Thành Thục Vương
7) Rồi mùa toóc(a) rã , rơm khô (a) : rạ
Bạn về quê bạn biết mô(b) mà tìm (b) : Đâu
:M02::M02: bạn tìm hiểu rất tốt. Bạn đã giúp mình làm tốt bài kiểm tra rồi đấy. Cảm ơn bạn nhiều lắm>-):khi (176)::khi (176):Minh đang nói với 321 zaq
Nhầm chủ đề vinh001 ơi, ca dao tục ngữ Hải Phòng mà?
Bạn đang xem chủ đề Ca Dao Tục Ngữ Về 6 Cặp Phạm Trù trên website Boxxyno.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!