Xem Nhiều 3/2023 #️ Tôn Vinh Người Phụ Nữ Việt Nam # Top 10 Trend | Boxxyno.com

Xem Nhiều 3/2023 # Tôn Vinh Người Phụ Nữ Việt Nam # Top 10 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Tôn Vinh Người Phụ Nữ Việt Nam mới nhất trên website Boxxyno.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

TÔN VINH NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM

20/10/2019

Phụ nữ Việt Nam vốn sinh ra trong một đất nước với nền văn minh nông nghiệp, dựa trên nền tảng nghề trồng lúa nước và thủ công nghiệp nên phụ nữ Việt Nam đã trở thành lực lượng lao động chính. Bên cạnh đó, nước ta luôn luôn bị kẻ thù xâm lược. Từ thực tế đó mà người phụ nữ Việt Nam có bản sắc phong cách riêng: họ là những chiến sĩ chống ngoại xâm kiên cường, dũng cảm; là người lao động cần cù, sáng tạo, thông minh; là người giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giữ gìn, phát triển bản sắc và tinh hoa văn hoá dân tộc; là những người mẹ dịu hiền, đảm đang, trung hậu đã sản sinh ra những thế hệ anh hùng cho dân tộc.

Vào thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc có những nữ anh hùng đã được lưu danh vào sử sách như Bà Trưng; Bà Triệu với câu nói:

“Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, lấy lại giang sơn, dựng nền độc lập, cởi ách nô lệ, chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp cho người”

Dưới chế độ phong kiến và đế quốc, phụ nữ là lớp người bị áp bức, bóc lột, chịu nhiều bất công nên luôn có yêu cầu được giải phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng. Ngay từ những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ đã tham gia đông đảo vào phong trào Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, còn có nhiều phụ nữ nổi tiếng tham gia vào các tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam như: Hoàng Thị Ái, Thái Thị Bôi, Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Minh Khai…

Từ năm 1927 những tổ chức quần chúng bắt đầu hình thành và thu hút đông đảo tầng lớp phụ nữ như: Công Hội Đỏ, Nông Hội Đỏ, các nhóm tương tế, tổ học nghề và các tổ chức có tính chất riêng của nữ giới.

Năm 1930, trong phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh, ở Nghệ An, Hà Tĩnh có 12.946 chị tham gia phụ nữ giải phóng, cùng nhân dân đấu tranh thành lập chính quyền Xô Viết ở trên 300 xã. Ngày 1/5/1930, đồng chí Nguyễn Thị Thập đã tham gia lãnh đạo cuộc đấu tranh của hơn 4.000 nông dân ở hai huyện Châu Thành, Mỹ Tho, trong đó có hàng ngàn phụ nữ tham gia.

Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Đông Dương thành lập. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi “Nam nữ bình quyền”. Đảng sớm nhận rõ, phụ nữ là lực lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm vụ: Đảng phải giải phóng phụ nữ, gắn liền giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp với giải phóng phụ nữ.

Chính vì vậy mà ngày 20/10/1930, Hội Liên hiệp Phụ nữ chính thức được thành lập. Sự kiện lịch sử này thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng đối với vai trò của phụ nữ trong cách mạng, đối với tổ chức phụ nữ, đối với sự nghiệp giải phóng nữ giới.

Đảng cộng sản Việt Nam đã quyết định chọn ngày 20 tháng 10 hằng năm làm ngày truyền thống của tổ chức này, đồng thời cũng xem đây là ngày kỉ niệm và tôn vinh phụ nữ Việt Nam, lấy tên là “Ngày Phụ nữ Việt Nam”.

Đã trải qua 89 năm, ngày 20 tháng 10 vẫn còn nguyên giá trị nhằm tôn vinh và ghi nhận của đất nước với những người phụ nữ được Bác Hồ phong tặng tám chữ vàng “Cần cù, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang”.

– Ban Vì sự Tiến bộ Phụ nữ

– Đại cương Lịch sử Việt Nam

Danh Ngôn Phụ Nữ Việt Nam

2. Paris By Night 90 – Chân Dung Người Phụ Nữ Việt Nam (Part 1)

3. Vào dịp này, chị em phụ nữ được nhiều người bày tỏ sự quan tâm và tôn vinh dưới nhiều hình thức, như tặng hoa, tặng thiệp và kèm theo những lời chúc mừng.

4. Những câu danh ngôn bất hủ về phụ nữ Một người đàn bà xấu mặt nhưng đẹp lòng là người đàn bà đẹp.

9. Tìm hiểu chăm sóc bà bầu, làm đẹp, thời trang, Gia đình, đưa phụ nữ LÊN ĐỈNH.

15. Tổng hợp danh ngôn về tính cách hay nhất, những quan điểm của những người nổi tiếng về tính cách, những câu nói về tính cách hay nhất.

17. Aug 17, 2015 · Phụ nữ luôn muốn bản thân không ngừng đổi mới trong mắt đối phương, còn các chàng trai lại không ngừng tìm hiểu những điều còn chưa biết về họ.

20. Tuyển tập những câu danh ngôn phụ nữ hay nhất, những câu nói hay về phụ nữ, tìm hiểu những điều bạn chưa biết về phụ nữ.

21. Jul 21, 2017 · Là Phụ Nữ có chết cũng cần phải ghi lòng tạc dạ những điều này để cuộc sống sung sướng và yên bình – Duration: 15:46.

22. Phụ nữ Việt Nam là nguồn nhân tố quan trọng đối với sự phát triển toàn diện của xã hội Việt Nam.

24. Danh ngôn Việt Nam “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh mà hưng thịnh, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà thấp hèn.

36. Để nói về vẻ đẹp của người phụ nữ, có lẽ nếu vận dụng mọi ngôn ngữ trên thế giới cũng thật khó để diễn tả ….

38. Chỉ còn vài ngày nữa là đến ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3 và chẳng có lời chúc mừng nào có thể sánh bằng những câu danh ngôn dành cho phụ nữ nhằm tôn vinh những đóng góp và cống hiến của họ đối với gia đình và xã hội.

40. Báo phụ nữ – Đọc báo tin tức 24h mới nhất trong ngày về phụ nữ Việt Nam và hạnh phúc gia đình,xem báo phụ nữ online để cập nhật bí quyết làm đẹp,giữ gìn hạnh phúc.

42. 4000 năm giữ nước và dựng nước, không kém cạnh các đấng mày râu, ở bất kỳ đời nào thời nào, ở bất cứ công việc nào từ làm khoa học, sáng tác văn thơ, giết giặc, trị nước, cũng có những.

43. 100 Bài Bolero Nhạc Vàng Xưa ĐẶC BIỆT Hay Tê Tái Nhạc Hay Việt Nam 792.

44. Nhân tuần lễ 8/3, Tạp chí Phụ nữ xin dành thời gian chia sẻ tâm sự của người phụ nữ Việt Nam thành danh trên đất Mỹ.

45. Cách đây từ rất nhiều năm, những người phụ nữ Việt Nam đã được dành tặng 8 chữ vàng là “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.

47. – PIGAULT LEBRUN -Cái khó khăn chính đối với người đàn bà đức hạnh không phải là chinh phục họ, mà là đưa họ vào một nơi khép kín.

Phụ Nữ Việt Nam Qua Ca Dao, Tục Ngữ

Thật vậy, người Việt Nam từ rất sớm đã có quan niệm hết sức nghiêm túcvề vấn đề tái sản xuất con người mà cụ thể là duy trì nòi giống. Truyềnthuyết Quả bầu mẹ của dân tộc Khơ mú kể rằng sau trận đại hồng thủy, mọingười trên thế gian đều chết hết, chỉ còn lại hai anh em nhà nọ. Họ bèn nghe lờichim thần lấy nhau để duy trì nòi giống. Hành động “loạn luân” này chẳngnhững không bị người đời sau lên án mà ngược lại còn được bày tỏ thái độ triân, đủ thấy trách nhiệm duy trì nòi giống được ông cha ta coi trọng đến mứcnào.Trong công việc duy trì nòi giống thì giống cái giữ vai trò chính còn giốngđực chỉ giữ vai trò phụ. Bởi vậy mà các hình tượng thuộc tín ngưỡng phồn thựcđược tôn thờ phần lớn là các bộ phận sinh dục nữ. Ngay cả ông Địa, đã gọi là“ông” mà vẫn được mang hình tướng y hệt người phụ nữ có mang sắp sinh.Trong ca dao, tục ngữ Việt Nam, vai trò sinh đẻ của người phụ nữ luônđược đề cao:– Con chim se sẻ nó đẻ cột đìnhBà ngoại đẻ má, má đẻ mình em ơi– Có chồng mà chẳng có conKhác gì hoa nở trên non một mình

Bởi vậy mà ngày xưa đàn ông chọn vợ rất coi trọng tiềm năng sinh sản:– Đàn ông không râu bất nghìĐàn bà không vú lấy gì nuôi con– Những người thắt đáy lưng ongĐã khéo chiều chồng lại khéo nuôi conNhững người phụ nữ không có khả năng sinh con bị xem là có tội, chồngcó thể đi lấy vợ khác, thậm chí người vợ đó phải chủ động đi cưới vợ khác chochồng để nối dõi tông đường. Những người phụ nữ không con, do đó, càngthêm bất hạnh, bị rẻ rúng, khinh khi: “Cây độc không trái, gái độc không con”.Xây dựng nề nếp gia phongNuôi dạy con cáiTrong gia đình Việt Nam, người phụ nữ chịu trách nhiệm chính trong việcnuôi dạy con cái, được xem là “nội tướng”, người nội trợ trong gia đình. Chínhngười mẹ đã mang nặng đẻ đau và nuôi dạy con khôn lớn:– Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưaMiệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương– Gió mùa thu mẹ ru con ngủNăm canh chầy thức đủ vừa nămChẳng những nuôi lớn phần xác, mẹ còn nuôi lớn con phần hồn bằng lờiru nồng nàn tình nghĩa và dạy dỗ con nên người:

– Phúc đức tại mẫu– Mẹ ngoảnh đi, con dại; mẹ ngoảnh lại, con khôn– Mẹ dạy thì con khéo, bố dạy thì con khônKhi con cất tiếng nói bi bô đầu đời, người mẹ cảm thấy vô cùng hạnhphúc:Có vàng vàng chẳng hay phôCó con, con nói trầm trồ mẹ ngheKhi con lớn lên một chút, chính mẹ là người chỉ bảo, dìu dắt con đi trênmọi bước đường:Ví dầu cầu ván đóng đinhCầu tre lắt lẻo gập ghềnh khó điKhó đi mẹ dắt con đi…Chính vì vậy mà người mẹ, người bà chịu hoàn trách nhiệm về đứa con,đứa cháu của mình: “Con dại cái mang”, “Mẹ nào con nấy”, “Con hư tại mẹ,cháu hư tại bà”… Hầu như tạo hóa sinh ra người phụ nữ là để hy sinh chochồng con:Có con phải khổ vì conCó chồng phải gánh giang sơn nhà chồngSo với cha thì công lao của người mẹ thường nặng hơn nhiều: “Cha sinhkhông bằng mẹ dưỡng”. Bởi vậy mà mồ côi cha vẫn không khổ bằng mồ côimẹ:

Mồ côi cha ăn cơm với cáMồ côi mẹ liếm lá đầu chợTình phụ tử sâu nặng đã đành, nhưng tình mẫu tử lại có thêm sự cảmthông sâu sắc:Chiều chiều ra đứng ngõ sauTrông về quê mẹ ruột đau chín chiềuVẳng nghe chim vịt kêu chiềuBâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đauMá ơi đừng gả con xaChim kêu vượn hú biết nhà má đâuNgười mẹ đặc biệt lo cho tương lai hạnh phúc của con gái khi đến tuổi lấychồng:Mẹ mong gả thiếp về vườnĂn bông bí luộc, dưa hường nấu canhLời mẹ căn dặn con gái trước khi về nhà chồng thật tha thiết, cho thấytrách nhiệm nặng nề của người phụ nữ:Con gái lớn ơi, mẹ bảo đây nàyHọc buôn học bán cho tày người taCon đừng học thói chua ngoaHọ hàng ghét bỏ, người ta chê cười…Con ơi, nhớ bấy nhiêu lờiChính vì gắn bó nhiều với mẹ nên đứa con cũng dễ gắn bó và yêu thươngbên ngoại. Nếu đứa con gắn bó bên nội chủ yếu là ở quan niệm về huyết thốngthì lại gắn bó với bên ngoại chủ yếu là ở tình cảm. Nếu có gặp biến cố lớn tronggia đình thì đứa con thường trôi dạt về quê ngoại như “lá rụng về cội”: “Tấn vềnội, thoái về ngoại”, “Cháu bà nội, tội bà ngoại”. Riêng giữa cháu và bà ngoạiluôn có một mối tình đặc biệtGìn giữ hạnh phúc gia đìnhVai trò này chủ yếu thể hiện trong mối quan hệ với chồng mà trước hết làviệc “chiều chồng”. Người phụ nữ Việt Nam có truyền thống yêu thương chồngtha thiết, vượt trội hẳn tình yêu thương của chồng:– Gái thương chồng đương đông buổi chợTrai thương vợ nắng quái chiều hôm– Chồng em áo rách em thươngChồng người áo gấm xông hương mặc ngườiTrong gia đình, người phụ nữ luôn hết lòng chăm lo cho chồng như mộtngười phục vụ nhiệt tình:Quả cau nho nhỏ, cái vỏ vân vânNay anh học gần, mai anh học xaLấy chồng từ thuở mười baViệc cửa việc nhà anh bỏ cho tôi

Tuy là phái yếu nhưng họ lại luôn có ý thức che chở cho chồng:– Trời mưa ướt lá trầu vàngƯớt em em chịu, ướt chàng em thương– Em nghe anh đau đầu chưa kháEm băng đồng chỉ sá hái ngọn lá cho anh xôngƯớc chi nên đạo vợ chồngĐổ mồ hôi thì em quạt, ngọn gió lồng thì em cheNhững hành động cao cả nói trên tóm lại là ở đức hi sinh cao cả của người phụnữ Việt Nam, trước hết là đối với chồng:Thương chồng nên phải lội sôngVì chồng nên phải ăn ròng bẹ mônSo với nam giới thì người phụ nữ Việt Nam có truyền thống thủy chunghơn nhiều:– Chưa chồng đi dọc đi ngangCó chồng thì thẳng một đàng mà đi– Có chồng thì phải theo chồngChồng đi hang rắn hang rồng cũng theoNgay cả khi chồng ruồng bỏ, họ vẫn nhẹ nhàng van lơn một cách khiêmnhường, từ tốn:Chàng ơi phụ thiếp mà chiThiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòngĐặc biệt, khi chồng giận dữ, vai trò dàn xếp của người vợ vô cùng quantrọng:Chồng giận thì vợ bớt lờiCơm sôi nhỏ lửa mấy đời cơm khêLàm kinh tếNgười phụ nữ Việt Nam là trung tâm kinh tế của gia đình. Họ vừa là thủquỹ (“Trai có vợ như giỏ có hom”), vừa là người cân đối chi tiêu. Người vợhiền thục, đảm đang là thứ tài sản vô cùng quý giá của chồng:Làm trai lấy được vợ hiềnNhư cầm đồng tiền mua được của ngonVề hình thức thì gia đình Việt Nam có vẻ nam quyền, như thực chất lại rấtbình đẳng, thậm chí tiếng nói của người vợ là quyết định:– Lệnh ông không bằng cồng bà– Ông tha mà bà chẳng thaLàm nên cái lụt hăm ba tháng mườiChính vì vậy mà lối sống “sợ vợ” trở nên hết sức phổ biến trong xã hộiViệt Nam. Người vợ đóng vai trò không nhỏ trong mọi thành công của chồng:“Giàu nhờ bạn, sang nhờ vợ”. Tài sản trong gia đình có được cũng là nhờ “củachồng công vợ”. Vợ là người đồng chí của chồng:Vợ chồng như đôi cu cu

Chồng thời đi trước, vợ gật gù theo sauMọi việc trong nhà, dù nặng hay nhẹ, đều có sự góp công của người phụnữ thì mới thành công: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”. Hìnhảnh “Chồng cày vợ cấy, con trâu đi bừa” trở nên vô cùng quen thuộc trong tâmthức người Việt Nam. Bởi vậy, cảnh người đàn ông làm lụng dãi dầu lẻ loi mộtmình bao giờ cũng lạ lẫm:Chú kia mà vợ chú đâuChú đi bắt ốc hái rau một mìnhÁp lực công việc trong gia đình luôn đè nặng lên đôi vai người phụ nữ:Có chồng chẳng được đi đâuCó con chẳng được đứng lâu một giờ.Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam luôn gắn liền với việc thức khuya dậysớm:Nửa đêm ân ái cùng chồngNửa đêm về sáng gánh gồng ra điKhi chồng đi xa hay qua đời, người vợ phải vừa làm dâu, vừa làm mẹ, vừalàm cha để quán xuyến mọi công việc trong gia đình:Con thơ tay ẵm tay bồngTay dắt mẹ chồng đầu bạc như bôngĐấu tranh chống ngoại xâmNgay từ buổi đầu chống ngoại xâm, người phụ nữ Việt Nam đã thể hiệnvai trò đặc biệt, thậm chí đi đầu của mình. Họ không phải chỉ biết chăm lo chogia đình mà khi cần cũng sẵn sàng xả thân vì nước vì nhà. Tấm gương BàTrưng, Bà Triệu là điển hình cho truyền thống “Giặc đến nhà đàn bà cũngđánh”:Vú dài ba thước giắt lưngCưỡi voi gióng trống trong rừng chạy raCũng toan gánh vác sơn hàCho Ngô biết mặt đàn bà Việt NamĐặc biệt, qua lời ru nồng nàn, người phụ nữ đã hun đúc cho con truyềnthống yêu nước chống ngoại xâm:Ru con, con ngủ cho lànhĐể mẹ gánh nước rửa bành con voiMuốn coi lên núi mà coiCó bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồngĐể đối mặt với kẻ thù, người phụ nữ Việt Nam chân yếu tay mềm nhưngsẵn sàng luyện tập võ nghệ để trở thành anh hùng:– Ai vô Bình Định mà coiCon gái Bình Định đánh roi đi quyền– Ai về Cao Lãnh mà coiCon gái Cao Lãnh bỏ roi đi quyền

Khi kẻ thù giày xéo quê hương, người phụ nữ Việt Nam sẵn sàng xông ratrận tiền diệt lũ bán nước và cướp nước:Gái Ba Tri mày tằm mắt phụngGiặc tới nhà chẳng vụng huơ daoNhưng phổ biến nhất là vai trò tiếp tế hậu cần của người phụ nữ trongcông cuộc chống ngoại xâm:Con ơi con ngủ cho ngonĐể mẹ tiếp tế ba con đánh thùKết luậnTừ trong truyền thống, người phụ nữ Việt Nam luôn giữ vai trò lớn laotrong gia đình và xã hội. Hình ảnh người mẹ, người bà, người chị hiện lên trongtâm thức dân tộc như một biểu tượng của tinh thần chăm chỉ cần cù, chịuthương chịu khó và giàu đức hi sinh.Nhưng vượt lên tất cả, người phụ nữ Việt Nam có vai trò gìn giữ các giátrị văn hóa truyền thống của dân tộc. Tạo hóa sinh ra họ như là đại diện cho bảnsắc văn hóa linh hoạt của dân tộc: vừa dịu dàng, vừa cứng cỏi; vừa là người chủtrong gia đình, lại vừa là người phục vụ; dù được tôn trọng nhưng vẫn không ỷlại. Chính vì vậy mà người phụ nữ trở thành biểu tượng của dân tộc Việt Nam.Điều đó giải thích vì sao phần lớn các hình thức tín ngưỡng bản địa ở Việt Namđều gắn với yếu tố nữ và người phụ nữ trở thành đối tượng thông linh trong đờisống tâm linh của cư dân bản địa Việt Nam.

Cổng Thông Tin Hội Liên Hiệp Phụ Nữ Việt Nam

2. Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ một nửa.

… Về phần mình, chị em phụ nữ không nên ngồi chờ Chính phủ, chờ Đảng ra chỉ thị giải phóng cho mình, mà tự mình phải tự cường, phải đấu tranh.

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nữ đại biểu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III, tháng 9 năm 1960. (Ảnh tư liệu)

3. chúng tôi từ khi mới thành lập, Đảng ta đã nêu rõ chính sách nam nữ bình đẳng, Hiến pháp ta đã xác định chính sách đó. Trong mọi việc, Đảng và Chính phủ ta luôn luôn quan tâm giúp đỡ phụ nữ. Vậy chị em phụ nữ ta phải nhận rõ địa vị làm người chủ và nhiệm vụ người làm chủ nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để làm trọn nghĩa vụ mới của mình là góp phần xứng đáng vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội…

Bài nói chuyện tại Đại hội Phụ nữ toàn quốc lần thứ IIIngày 9-3-1961

Bác Hồ với các đại biểu phụ nữ các dân tộc Việt Bắc năm 1959. (Ảnh tư liệu)

5. Phụ nữ cần phải xung phong trong việc xây dựng đời sống mới. Ở miền núi đang còn những phong tục không tốt do bọn phong kiến để lại, như: ma chay, cúng bái rất tốn kém. Cưới vợ, gả chồng quá sớm. Vệ sinh phòng bệnh, v.v… còn kém. Đó là những mê tín và hủ tục nên xóa bỏ, để xây dựng mỹ tục thuần phong.

6. Đoàn kết là sức mạnh. Đồng bào miền núi, trước hết là chị em phụ nữ, cần phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau. Đoàn kết giữa dân tộc mình, đoàn kết giữa các dân tộc. Đoàn kết với đồng bào miền xuôi lên phát triển kinh tế miền núi…

7. Để làm tốt những việc nói trên, chị em phải cố gắng học tập. Học văn hóa, học chính trị, học nghề nghiệp. Nếu không học thì không tiến bộ. Có quyết tâm thì nhất định học được…

8. Phụ nữ ta còn có một số nhược điểm như bỡ ngỡ, lúng túng, tự ti, thiếu tin tưởng vào khả năng của mình; mặt khác, phụ nữ cũng gặp nhiều khó khăn về gia đình, con cái. Muốn giải quyết khó khăn không nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng kiến, tin tưởng ở khả năng mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ nhau để giải quyết mọi khó khăn của phụ nữ trong công tác chính quyền…

9. Phụ nữ phải nâng cao tinh thần làm chủ, cố gắng học tập và phấn đấu; phải xoá bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ti; phải phát triển chí khí tự cường, tự lập. Có như thế phong trào “Năm tốt” sẽ ngày càng lan rộng, ăn sâu và sẽ thực hiện 100% bình quyền, bình đẳng

10. …Nhiều người lầm tưởng đó là một việc dễ, chỉ: Hôm nay anh nấu cơm, rửa bát, quét nhà, hôm sau em quét nhà, nấu cơm, rửa bát, thế là bình đẳng bình quyền. Lầm to!

Đó là một cuộc cách mạng khá to và khó.

Vì trọng trai khinh gái là một thói quen mấy nghìn năm để lại. Vì nó ăn sâu trong đầu óc của mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội….

Vũ lực của cuộc cách mạng này là sự tiến bộ về chính trị, kinh tế, văn hóa, pháp luật. Phải cách mạng từng người, từng gia đình, đến toàn dân. Dù to và khó nhưng nhất định thành công.

13.”Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo”…

Không có chỗ cho “Bác gái” đứng à?

Ngày 26 tháng 12 năm 1956, Bác Hồ đã tiếp hơn 300 đại biểu phụ nữ Thủ đô tại Phủ Chủ tịch. Họ là những phụ nữ ưu tú, gồm đủ các thành phần: Công nhân, nông dân, trí thức, tiểu thương, học sinh, các tôn giáo, phụ nữ miền Nam tập kết ra Bắc và các gia đình có công với cách mạng. Được đi gặp Bác, ai cũng tươi cười hớn hở, diện những bộ quần áo đẹp nhất.

Sau khi nói chuyện và căn dặn các đại biểu phụ nữ, Bác vui vẻ chỉ vào những đĩa bánh, những đĩa kẹo bày trên bàn và bảo:

– Các cô ăn bánh, ăn kẹo đi. Cô nào có cháu bé thì mang về cho cháu; có chồng thì mang về cho chồng; có người yêu thì mang về cho người yêu, nói là quà của Bác Hồ.

Được lời của Bác, mọi người phấn khởi chia nhau bánh, kẹo.

– Nào bây giờ Bác cháu ta ra chụp ảnh.

Mọi người cùng kéo cả ra thềm Phủ Chủ tịch. Chị nào, cô nào cũng muốn được đến gần Bác để chụp ảnh. Bác bảo:

– Ai cũng muốn đứng gần Bác cả thì không có chỗ cho “bác gái” đứng à?

Mọi người còn chưa hiểu “bác gái” nào Bác đã kéo bác sĩ Trần Duy Hưng, Chủ tịch thành phố Hà Nội lại bảo: “Bác gái đây!”.

Tất cả mọi người cười vui vẻ. Bác nói tiếp:

– Bây giờ những cô nào đứng phía trước thì ngồi xuống, để những người đứng phía sau được rõ mặt hơn.

Mọi người răm rắp vâng theo lời Bác.

Nhà nhiếp ảnh bấm liền mấy “pô” ảnh. Ai cũng nghĩ: Chụp ảnh xong sẽ được chào Bác ra về. Nhưng đến khi quay lại, Bác đã không đứng đó nữa làm mọi người vô cùng luyến tiếc.

Ảnh: Chủ tịch Hồ Chí Minh với các cán bộ cơ quan TW Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ở Việt Bắc, tháng 2/1949

Chủ nhật trước ngày 2 tháng 9 năm 1958, một số chị em trong cơ quan Thành hội Phụ nữ đã đi phố sắm sửa cho ngày lễ. Nhưng khu tập thể vẫn đông vui vì hôm đấy không chỉ có các ông chồng về chơi, mà nhiều chị em còn đón cả bố mẹ ở quê ra dự ngày hội lớn ở Thủ đô. Mọi người không ngờ đã được Bác Hồ đến thăm. Xe vừa đỗ, Bác nhanh nhẹn bước xuống. Các chị trong cơ quan mừng quá, ùa ra đón, mời Bác vào phòng khách, nhưng Bác không vào mà nói:

– Không, Bác chưa vào phòng khách. Các cô cứ để Bác đi xem các cô ăn ở thế nào đã.

Bác đi qua sân, qua dãy nhà tập thể xuống thẳng bếp, hỏi thăm việc nấu nướng và khen ngợi chị em cấp dưỡng giữ gìn bếp núc sạch sẽ. Đến thăm nhà trẻ nhưng là ngày nghỉ, các cháu ở nhà, Bác nhìn qua cửa thấy nhà trẻ sạch bong, Bác gật đầu tỏ ý hài lòng. Bác thấy ngoài sân có một số cán bộ nam giới, Bác hỏi anh em:

– Cơ quan phụ nữ sao lại có các chú ở đây?

– Thưa Bác, hôm nay là Chủ nhật, chúng cháu về thăm gia đình ạ!

– Các chú chỉ về thăm thôi à? Các chú về phải giúp đỡ các cô ấy việc gì chứ!

– Thưa Bác, chúng cháu có giặt giũ, bế con, dọn dẹp nhà cửa đấy ạ!

Bác quay lại hỏi các chị em:

– Thế nào, các chú ấy nói có đúng không?

– Thưa Bác, đúng ạ!

Tất cả vui vẻ cười rộ lên sung sướng theo cái gật đầu, bằng lòng của Bác. Lúc ấy Bác mới đi vào phòng khách và hỏi thăm sức khỏe, tuổi tác của mấy cụ già, rồi căn dặn các chị em làm việc tốt, riêng với các cô giữ trẻ, Bác nhắc nhở:

Bác đến thăm và nói chuyện với Đại hội Ba đảm đang của phụ nữ Thủ đô

Chủ tịch Hồ Chí Minh trao huy hiệu cho đại biểu có nhiều thành tích tại Đại hội Những người xuất sắc trong phong trào “Ba đảm đang” của phụ nữ Thủ đô ngày 2/12/1965

– Các cháu là mầm non của Tổ quốc, là tương lai của xã hội, các cô phải trông nom dạy dỗ các cháu cho chu đáo.

Đại hội Ba đảm đang của phụ nữ Thủ đô lần thứ nhất, khai mạc rất trọng thể vào tối 1-12-1965 tại hội trường Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc. Chiều 2-12-1965 (ngày họp thứ 2) vào khoảng 16 giờ, Đại hội vô cùng sung sướng, phấn khởi được đón Bác. Cùng đi với Người có Thủ tướng Phạm Văn Đồng và Anh hùng miền Nam Tạ Thị Kiều. Vừa thấy Bác, cả Hội trường đứng bật dậy, vỗ tay ran như sấm lẫn với tiếng reo vô cùng phấn khởi.

– Bác! Bác đến! Bác đến!… Hồ Chủ tịch muôn năm! Hồ Chủ tịch muôn năm!

Sau mấy phút vô cùng sôi nổi, Bác giơ tay ra hiệu (một cử chỉ thường có của Bác) cho Đại hội im lặng, rồi Bác tươi cười chỉ vào chị Kiều và nói:

– Hôm nay, Bác dẫn “cô bé này” đến với Đại hội, các cô, các chú (Đại hội có một số đại biểu là nam giới) có phấn khởi không?

Cả Đại hội vỗ tay rầm rầm xen lẫn tiếng:

– Thưa Bác, có ạ!

Không khí Đại hội thật vô cùng náo nhiệt, sôi nổi. Bác đã kể cho Đại hội nghe về những gương anh hùng của phụ nữ ta trong thời kỳ bí mật, trong cuộc kháng chiến chống Pháp và sự hy sinh anh dũng của chị em miền Nam trong chống Mỹ.

Thật bất ngờ, Bác rút trong túi ra một cột báo của Báo Thủ đô ngày hôm đó, đọc tên bảy bà và chị, xong Bác hỏi:

– Các cô ấy có mặt ở Đại hội này không?

Hội trường lại vang lên:

– Thưa Bác, có ạ!

Bác tươi cười nói:

– Hôm nay, Bác đọc báo thấy có đăng thành tích của bảy cô là công nhân, là nông dân, là giáo viên… Bác rất vui, Bác có mấy chiếc huy hiệu để tặng các cô ấy.

Mọi người sung sướng vỗ tay tưởng làm vỡ phòng họp.

Sau cùng Bác hỏi:

– Các cô có muốn được Bác thưởng Huy hiệu của Bác không?

Cả Hội trường lại phấn khởi trả lời vang lên:

– Thưa Bác, có ạ, có ạ!

Vậy các cô về làm công tác cho tốt, Bác sẽ thưởng!

Cả Hội trường lại vang lên như sấm.

Ở chiến khu Việt Bắc, một lần Bác đến thăm nhà nữ đồng chí Loan, người đã kéo cờ ở Quảng trường Ba Đình ngày 2-9-1945. Vào đến nhà, thấy đông con nhỏ, Bác nói vui:

– Ồ tưởng đây là nhà cô Loan, hóa ra mình vào nhầm nhà trẻ!

Biết Bác phê bình khéo, chị gượng cười và báo cáo:

– Thưa Bác đây là tiểu đội của vợ chồng cháu đấy ạ!

Bác vui vẻ bảo chị tập trung “tiểu đội” cứ lần lượt, bé nhất đứng trước Bác chia kẹo. Chị đang loay hoay sắp xếp đội hình, Bác bảo:

– Tiểu đội trưởng cũng đứng vào hàng chứ!

Bác chia kẹo cho các cháu và chị nữa. Khi đến lượt chị, Bác nói vui:

Sáng 17 tháng 9 năm 1958, Bác đến thăm ngót 3.000 thầy giáo, cô giáo của toàn miền Bắc được tập trung về Trường Bổ túc Công nông Trung ương để nghiên cứu tình hình nhiệm vụ của cách mạng và nhiệm vụ của ngành giáo dục.

Bác nói chuyện với các thầy giáo, cô giáo về nghề dạy học, nghề “trồng người”.

Tại buổi nói chuyện này, có một chuyện làm mọi người nhớ mãi và trở thành một kỷ niệm không thể quên. Lúc Bác nói chuyện xong một cô giáo của Trường Lương Ngọc Quyến – Liên khu Việt Bắc lên tặng Bác một món quà nhỏ. Mọi người thấy cô giáo trân trọng tặng Bác một chiếc cặp ba dây. Bác mở ra: Trong cặp có 4 chiếc khăn mùi soa. Bác cầm một chiếc và đọc to những dòng chữ thêu trên khăn. Đó là một bài thơ ngắn. Đọc xong Bác trích ra hai câu và “chấm bài” ngay tại chỗ. Câu thứ nhất: “Bác là ánh sáng quang vinh”, Bác sửa: “Bác là Hồ Chí Minh” ; và câu thứ hai: “Chúng con quyết trí hy sinh” lại được Bác sửa: “Chúng tôi quyết chí hy sinh”. Bác vui vẻ nói: “Quyết chí” mà cô giáo viết sai chính tả thành “Quyết trí”. Cả Hội trường cười vui, làm không khí thân mật, đầm ấm, tình cảm giữa lãnh tụ với nhân dân mà ấm áp như cha con trong nhà.

Đến thăm một đơn vị bộ đội phòng không, đang giữa câu chuyện với ngót 500 cán bộ, chiến sĩ,Bác hỏi:

– Có anh nuôi ở đây không?

– Các cháu lên đây.

Các cô gái ngày thường lấm lem than nồi, thế mà giờ đây lại được Bác Hồ quan tâm, cảm động quá cứ ôm lấy Bác Hồ mà khóc. Bác hỏi vui:

– Các cháu làm gì?

– Chúng cháu làm anh nuôi ạ!

– Gái mà làm anh nuôi à?

Bác Hồ đi thăm một hợp tác xã ở Nam Ðịnh năm 1959

Bác cháu bật cười vui vẻ.

Hồi đó anh chị em là cán bộ miền Nam, gồm năm đến sáu ngàn người, tập kết ra miền Bắc được đưa lên nông trường ở Yên Bái, Lào Cai. Do cuộc sống gian khổ, không quen khí hậu miền Bắc nên số đông bị ốm, rồi lại hết việc làm. Với ý nghĩ hai năm sẽ trở về quê hương nay gặp quá nhiều khó khăn, nhiều người bất mãn… Trước tình hình đó, Nhà nước chủ trương lập các khu điều dưỡng cho cán bộ miền Nam… Khi chúng tôi mời Bác về thăm anh em ở các Trại Thường Tín và Thanh Trì thì Bác nhận lời ngay…

Trại xây trên khu đất rộng nên Bác chưa vào hội trường vội, Bác đi một lượt thăm mọi nơi, mọi chỗ ăn chỗ ở, Bác thấy sạch sẽ, vừa ý. Bác hỏi tôi:

– Lúc nào cũng sạch sẽ như thế này à?

– Thưa Bác, vâng ạ!

Sau khi thăm các trại điều dưỡng, bác còn thăm trường Nữ sinh Trưng Vương. Các cháu như đàn o­ng, quây quanh lôi kéo Bác, Bác thấm mệt, toát cả mồ hôi. Tôi liền ngăn: “Ô, các cháu đi xuống đi, làm thế Bác mệt”. nhưng Bác bảo: “Kệ các cháu”…

(Trích lời kể của bà Lê Minh Hiền Nguyên Thứ trưởng Bộ Cứu tế nay là Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội)

Có nhiều dịp được tiếp xúc làm việc gần Bác, tôi thấy Bác rất quan tâm đối với cán bộ miền Nam cũng như đối với phụ nữ. Bác lắng nghe và ân cần chăm sóc thăm hỏi động viên họ, khuyên bảo cán bộ phụ nữ phải đi sát quần chúng, phải biết nấu cơm, phải biết tắm rửa cho trẻ con. Đối với dân, Bác rất tôn trọng, quan tâm đến đời sống, sinh hoạt của nhân dân. Bác sống rất giản dị, thanh đạm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm hỏi chị em dân công lao động đào mương chống hạn ở Từ Liêm, Hà Nội, ngày 16/12/1958

… Thấy Bác đứng dưới bóng cây mát, chúng tôi đến vây quanh Bác, đồng chí Bộ trưởng cũng đến đứng gần Bác.

– Ở đây gọn gàng, sạch sẽ, ngăn nắp thế là tốt. Và Bác hỏi:

– Các cô các chú ở đây đã có “Chi bộ 4 tốt” chưa?

– Dạ thưa Bác, có ạ!

– Ở đây đã có “Chi đoàn thanh niên 4 tốt” chưa?

(Trích lời kể bà Trương Thị Minh Tri – Bác sĩ bệnh viện Vân Đình – Hà Tây)

– Dạ, thưa Bác, có ạ!

(Trích trong sách Bác Hồ sống mãi với chúng ta, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005, tập 2, tr.53)

– Đảng viên phải gương mẫu, đoàn viên phải đầu tàu. Ở đây các cô các chú lại có phong trào thi đua tốt, tự lực cánh sinh làm được nhiều việc, nhận được lá cờ đầu của ngành Y tế là phải. Nhưng đây mới là thành tích bước đầu. Các cô chú phải khiêm tốn học tập và phát huy thành tích hơn nữa. Các cô các chú phải chữa bệnh bằng nhiều cách. Có thuốc quý chưa đủ, cần cho người bệnh ăn ngon và phù hợp với từng bệnh cũng là liều thuốc quý. Lại cần phải tuyên truyền, giải thích cho đồng bào xung quanh biết giữ gìn vệ sinh. Cần làm cho người bệnh khi khỏi bệnh biết cách phòng bệnh cho mình và cho gia đình mình.

Đại hội Liên hoan chiến sĩ thi đua toàn quốc đầu tiên, tổ chức ở Việt Bắc hồi tháng 5 năm 1952…

(Những kỷ niệm sâu sắc của phụ nữ Việt Nam với Bác Hồ, (Trích theo Tạ Hữu Yên: Mênh mông tình thương Hồ Chí Minh, Nxb.Thanh niên, H.2002, tr.37-39)

Chiều mát, Bác đến từng tổ chiến sĩ ân cần thăm hỏi, rồi mọi người theo Bác ra một quãng đồi san phẳng để vui chơi tập thể. Hồi đó, phong trào nông tác vũ “son la son” mới gia nhập Chiến khu Việt Bắc. Bác bảo các chiến sĩ: “Các cô, các chú, chiến đấu đã chiến đấu hăng, vui nhộn phải vui nhộn mạnh. Nào, ta nhảy đi!”. Đám thanh niên rất sẵn sàng, nhưng đám thiếu nữ còn sượng sùng ra ý rụt rè… Bác bảo: “Các cô còn phong kiến thế à?”. Được Bác khuyến khích, cả nam lẫn nữ bấy giờ mới cầm tay, nhảy tưng bừng giữa dàn nhạc mồm: “Son la son…” vang dội cả khu đồi.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ân cần thăm hỏi bà con xã Tam Sơn, Tiên Sơn, Hà Bắc trong dịp Người về thăm và chúc Tết đồng bào, ngày 9/2/1967

Một điều Bác dạy bảo mà suốt đời tôi không bao giờ quên là: “Báo chí là đại biểu cho dư luận, phải giúp Chính phủ đạt được thành công trong các chính sách đối nội đối ngoại. Sau này những lúc tình hình cách mạng có chuyển biến mới, người làm báo phải suy nghĩ nhiều. Câu nói của Bác giúp tôi nhớ tới vị trí và tính chất của báo chí ta. Một lần, Bác hỏi chị Thanh Thủy và tôi: “Các cô đã có con chưa? Các cô đã biết bế con, nuôi con chưa? Làm báo Phụ nữ không phải chỉ nói chính trị suông, giải phóng phụ nữ chung chung mà còn phải hướng dẫn cho chị em cách nuôi con, dạy con chăm lo việc gia đình. “Chị em trong cơ quan hỏi Bác nhiều điều. Bác trả lời cả những câu hỏi nhỏ nhặt nhất: “Tại sao trong họa báo Liên Xô lại thấy ảnh nhiều chị em để tóc dài? Có phải là sau khi vận động phụ nữ cắt tóc ngắn rồi lại phải vận động phụ nữ để tóc dài hay sao?”. Bác trả lời đại ý: Sau Cách mạng Tháng Mười, Liên Xô có rất nhiều khó khăn trong công cuộc bảo vệ và xây dựng cuộc sống mới. Phụ nữ phải đem hết sức mình ra chiến đấu và sản xuất, cho nên chị em ăn mặc giản dị, tóc cũng cắt ngắn để đi lại cho gọn. Bây giờ, chiến tranh thứ hai kết thúc đã nhiều năm, nền kinh tế đã được khôi phục và phát triển, đời sống được nâng cao, phụ nữ đã có thể trang điểm cho thêm đẹp, ai cho rằng để tóc dài đẹp và không vướng víu gì trong sản xuất thì cứ để…

Năm 1952 có Đại hội liên hoan các anh hùng, chiến sĩ thi đua và cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất và Hội nghị bàn về chiến tranh du kích. Sau hai cuộc họp lớn đó, mọi người náo nức khen ngợi hai bản báo cáo của anh hùng Nguyễn Thị Chiên và của chị Phạm Thị Nhật, Bí thư chi bộ. Một hôm, Bác đến thăm cơ quan, chị em chúng tôi đều nói đến hai bản báo cáo ấy. Bác hỏi: “Các cô có biết vì sao mà báo cáo của các cô ấy hay không?”. Chị Đinh Thị Cẩn thưa: “Đó là do chị Chiên, chị Nhật đều lăn lộn, xông pha nhiều trong thực tiễn chiến đấu cho nên mới nói lên sự thật rất sinh động. Bác vừa cười vừa nói: “Đúng là như thế, nhưng không phải chỉ có thế. Các bản báo cáo ấy hay còn là do không có sự sửa chữa, thêm thắt của nhiều người khác…”. Tôi suy nghĩ rất nhiều. Câu nói ý nhị của Bác nhắc nhở tôi mỗi khi sử dụng hoặc biên tập lại bài của thông tin viên, bạn đọc trong đông đảo nhân dân, phải luôn luôn cố gắng ghi lại đúng đắn, trung thực những lời nói, những ý nghĩ mộc mạc, giản dị của những con người trong thực tiễn sản xuất và chiến đấu… không thể tùy tiện sửa đổi thêm bớt theo ý nghĩ chủ quan của mình./.

Trong lần nói chuyện với đại biểu nhân dân Nghệ An dịp về thăm quê ngày 14-6-1957, khi nói đến những thành tích của tỉnh trên lĩnh vực nông nghiệp, Bác nhấn mạnh đến vai trò của chị em phụ nữ, Bác nói: “Tôi muốn nêu một công trạng của chị em phụ nữ tỉnh ta. Đó là phong trào chăn nuôi gia súc”. Bác khen: Phụ nữ Anh Sơn, Nghi Lộc phong trào nổi trội hơn và Bác căn dặn phụ nữ Anh Sơn, Nghi Lộc phải cố gắng hơn nữa, để có kết quả cao hơn, để làm mẫu, làm gương cho chị em khác cùng thi đua. Còn chị em các huyện khác phải thi đua cho kịp với chị em Anh Sơn, Nghi Lộc… Tiếp đó, Bác biểu dương chị Trương Thị Tâm ở Nghĩa Đàn một mình nuôi 300 con gà, 4 con lợn, chị còn làm ruộng, tham gia công tác xã hội, làm tổ trưởng phụ nữ. Bác nói “Đây là một phụ nữ anh hùng… Anh hùng không phải “Đông chinh Tây phạt”, hoặc cứ làm cái gì kỳ khôi xuất chúng. Nuôi được nhiều lợn, nhiều gà, tăng gia sản xuất, tiết kiệm, tham gia công tác xã hội tốt, như thế là anh hùng, như thế là chiến sĩ”… “Các chị em ở đây cứ cố gắng thì ai cũng có thể làm anh hùng, chiến sĩ”. Những lời căn dặn của Bác thật cụ thể, nhẹ nhàng mà vô cùng sâu sắc. Làm theo lời Bác để trở thành anh hùng, chiến sĩ không phải chuyện gì quá xa xôi. Mỗi chị em chúng ta hãy làm tốt những việc giản dị, bình thường hàng ngày trong gia đình, thôn xóm, bản làng, cơ quan, đơn vị.

Ngày 9-12-1962, Bác đến thăm Nhà máy Cơ khí Vinh. Nói về những sáng kiến trong cải tiến sản xuất của công nhân nhà máy, Bác hỏi “thế thì các cháu trai có sáng kiến nhiều hơn hay các cháu gái có sáng kiến nhiều hơn?”. Được biết các cháu trai có nhiều sáng kiến hơn, Bác nhẹ nhàng động viên “Các cháu gái phải cố gắng”.

Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Bác Hồ nhiều lần gửi thư động viên, khen ngợi các mẹ, các chị phụ nữ Nghệ An đã chịu nhiều hy sinh, đóng góp xương máu, công sức tham gia phục vụ kháng chiến. Ngày 1-5-1949, Bác gửi thư cho Hội mẹ chiến sĩ Liên khu IV, Bác viết: “Các chiến sĩ thì sẵn sàng hy sinh gia đình, hy sinh tính mệnh để giết giặc cứu nước… các bà thì thương yêu săn sóc chiến sĩ như con cháu ruột thịt. Thế là các cụ, các bà cũng trực tiếp tham gia kháng chiến”. Ngày 16-3-1967, Bác gửi thư cho cán bộ và nhân viên nhà thương Nghệ An. Trong thư Bác viết “hầu hết cán bộ và công nhân viên của Nhà thương là phụ nữ… các cô, các cháu đã vượt khó khăn gian khổ, quyết tâm xây dựng một Nhà thương tốt… Bác rất vui lòng khen các cô, các cháu và mong tất cả mọi người đoàn kết tốt và tiến bộ nhiều”.

Chiến tranh phá hoại miền Bắc của đế quốc Mỹ, Nghệ An là điểm nút quan trọng, địch ngày đêm bắn phá ác liệt, nhằm cắt đứt các tuyến đường giao thông, ngăn chặn nguồn tiếp tế từ hậu phương miền Bắc cho chiến trường miền Nam. Các đội thanh niên xung phong Nghệ An đã không quản mưa bom, bão đạn sửa cầu, làm đường, đảm bảo giao thông thông suốt. Ngày 27-1-1969, Bác gửi thư khen ngợi Đội thanh niên xung phong số 333 tỉnh Nghệ An. Bác viết: “Đội phần lớn là các cháu gái đã dũng cảm chiến đấu, tích cực lao động, có nhiều sáng kiến cải tiến kỹ thuật, bảo đảm cầu đường được thông suốt luôn… Các cháu xứng đáng là những thanh niên ưu tú của nhân dân Việt Nam anh hùng”. Bác còn căn dặn: giặc Mỹ đã thua to, nhưng chúng vẫn rất ngoan cố. Vì vậy, các cháu phải nêu cao ý chí chiến đấu, tinh thần cảnh giác cách mạng; luôn luôn đoàn kết, ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá để ngày càng tiến bộ; đem hết nhiệt tình, tài năng của tuổi trẻ cống hiến thật nhiều cho sự nghiệp chống Mỹ cứu nước.

Bác vừa căn dặn phụ nữ tích cực lao động, chiến đấu nhưng cũng phải cố gắng học tập, nhất là các cháu gái. Nói chuyện với đại biểu nhân dân Nghệ An ngày 14-6-1957, khi biết số lượng học sinh gái ít hơn nhiều hơn so với học sinh trai, Bác đã không vui. Bác nói “Tỉnh ta có 7 vạn học sinh. Thế là khá, nhưng trong đó chỉ có 32 học sinh gái ở cấp III và 865 học sinh gái cấp II là còn ít. Thế thì các cháu gái phải cố gắng, các vị cha mẹ đừng tiếc công mà giữ con gái ở nhà, không cho các cháu đi học”. Đến thăm Trường Sư phạm miền núi Nghệ An (ngày 9-12-1961), Bác hỏi thăm học sinh các dân tộc. Khi Bác hỏi đến các cháu học sinh dân tộc Tày, có một học sinh nam đứng dậy, Bác hỏi: “chỉ có một cháu thôi à? Sao lại không có cháu gái? lần sau phải có cháu gái”

Được tin các cụ, các bà trong Hội Mẹ Chiến sĩ Liên khu IV tuổi đã cao mà vẫn cố gắng học tập, Bác rất xúc động. Bác viết thư động viên: “Nhiều cụ, bà tuy tuổi tác đã cao, vẫn cố gắng học chữ, học làm tính. Thật là đáng kính, đáng quý. Chẳng những các chiến sĩ mà tôi và Chính phủ cũng biết ơn các cụ, các bà”.

Để phụ nữ thật sự tiến bộ, bình đẳng, Bác mong muốn phụ nữ cần cố gắng để góp sức vào mọi công việc, cả trong việc lãnh đạo, quản lý. Trong Di chúc Bác viết vào tháng 5-1968, Người căn dặn: “Đảng, Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”. Trong thư gửi đồng bào tỉnh nhà vào tháng 8-1949, Bác vui mừng khi biết xã nào cũng có phụ nữ tham gia vào hội đồng nhân dân. Bác viết: “Tôi rất vui lòng rằng xã nào cũng có phụ nữ tham gia hội đồng nhân dân… Phụ nữ phải tham gia chính quyền nhiều hơn và thiết thực hơn nữa…”. Nói chuyện với Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Nghệ An (ngày 8-12-1961), Bác hỏi: Ban Chấp hành Đảng bộ ở đây có tất cả bao nhiêu đồng chí?… “Có mấy đồng chí gái? (“Dạ, 3 đồng chí”). Thế là thế nào? Các đồng chí gái không được 10 phần trăm. Như thế thì đồng chí gái ít quá. Các chú có nhận thấy thế không? Không được một phần mười. Ít quá!”. Tiếp đó, ngày 9-12-1961, nói chuyện với cán bộ và đồng bào tỉnh, Bác nói: Tỉnh ta có hơn 61 vạn phụ nữ, tức là một nửa dân số, là lực lượng lớn trong công cuộc xây dựng Tổ quốc, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tuy vậy, “so với nam giới thì địa vị của phụ nữ trong xã hội còn quá thấp kém. Thí dụ: Ở hội đồng nhân dân các xã, phụ nữ chỉ được 15 phần trăm tổng số đại biểu. Ở các cấp đảng uỷ và chi uỷ có 5 phần trăm là nữ đồng chí”. Để khắc phục tình trạng đó, Bác đề nghị các cấp lãnh đạo quan tâm, tạo điều kiện cho phụ nữ phát triển: “Chúng ta phải có phương pháp đào tạo và giúp đỡ để nâng cao hơn nữa địa vị của phụ nữ”.

Những năm học ở bên Pháp, tôi vẫn luôn luôn hướng về Tổ quốc. Một đêm giao thừa, tất cả anh chị em người Việt Nam tụ tập tại trụ sở đón Tết của quê hương trên đất Pháp…

Tối hôm đó, Bác gặp Việt kiều ở Pari. Anh chị em Việt kiều quây quần xung quanh Bác như những người con tụ lại bên cha già. Trong tình cảm thương yêu rộng lớn, Bác dặn dò tất cả mọi người thế này: “Các cô, các chú phải cố gắng mỗi người học giỏi một nghề, sau này trở về giúp nước nhà, góp phần làm cho dân ta giàu, nước ta mạnh”. Lời dạy của Bác đã trở thành bó đuốc soi đường cho tôi suốt những năm học tập ở xa quê hương.

Giữa năm 1959, tôi thi đỗ bằng thạc sĩ toán học. Nhớ lời Bác, tôi tình nguyện xin về nước phục vụ.

(Trích lời kể của nữ Giáo sư, Tiến sĩ Toán học Hoàng Xuân Sính)

Trong những năm công tác ở Hà Nội, tôi được gặp Bác ba lần, một lần Bác đến thăm Trường Đại học Sư phạm của chúng tôi. Lần thứ hai, vào dịp Tết, tôi được gặp Bác. Trong buổi liên hoan đón năm mới hôm ấy Bác rất vui. Tôi lại được ngồi gần Bác. Bác cười chỉ vào tôi và nói với các đồng chí lãnh đạo ngồi bên cạnh:

– Sao ít phụ nữ thế? Bác muốn phong trào phụ nữ tiến bộ mạnh hơn nữa…

Tôi nghĩ trong đời tôi lúc bé đã được một lần Bác dạy cho cách học, những năm sống xa quê hương, hình ảnh Bác là nguồn động viên tôi khắc phục khó khăn để học tập. Khi trưởng thành lại được Bác săn sóc từ bữa ăn. Tôi là một trong hàng triệu phụ nữ Việt Nam đã được Bác, Đảng, Cách mạng giải phóng và trở thành người có ích, được đem sức lực của mình phục vụ nhân dân, đất nước. Đối với tôi, không có gì sung sướng hơn là giữ gìn những kỷ niệm về Bác – cái vốn quý báu mà Bác đã trao cho tôi từ khi còn bé. Cái vốn quý đó mỗi ngày càng được nhân lên gấp bội, như cuộc đời tôi, được Bác, Đảng dìu dắt mãi mãi đi trên con đường sáng…

Vào cuối tháng tư nǎm 1964, Đại hội Liên hoan Phụ nữ “5 tốt” toàn miền Bắc họp tại Thủ đô. Tất cả đại biểu về dự phần lớn là rất trẻ, nhiều cô còn trẻ hơn con dâu út của tôi, duy chỉ tôi là đầu đã bạc.

Hội trường Ba Đình bữa đó bỗng náo nhiệt hẳn lên khi nghe tin Bác đến.

Bác đến vào giữa lúc họp. Thật quá bất ngờ. Tiếng hô “Bác Hồ muôn nǎm” vang lên bắt đầu từ những hàng thế trên cùng, phút chốc loan đi khắp cả phòng họp rộng lớn này. Tôi mừng vui và cảm động đến chảy nước mắt. Nhất là khi Bác lên bàn nói chuyện thân mật, Bác lại nhắc đến tên tôi. Tôi run lên, thú thật tôi không còn tin ở tai mình nữa. Tôi cứ tưởng mình đang nằm mơ! Bên cạnh tôi, cháu Trương Thanh Trúc, diễn viên Đoàn Vǎn công quân đội ghé sát vào tai tôi nói khẽ: “Mẹ Hoan, Bác nhắc đến tên mẹ!”. Lúc đó tôi mới tin là không phải trong mơ, mà là sự thật. Trong đời tôi, đây là một vinh hạnh quá lớn, một điều mà chưa bao giờ tôi dám nghĩ đến. Tôi là một người phụ nữ bình thường ở một khu phố nhỏ, một người thợ thủ công già, thế mà Bác lại quan tâm đến công việc làm của tôi!

Thì ra nãy giờ tôi mải ngắm Bác… Giờ đây, tiếng Người vẫn bên tai. Mãi mãi trong đời tôi ghi tạc lời dạy của Người:

“Tǎng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là con đường đi đến xây dựng thắng lợi chủ nghĩa xã hội, xây dựng hạnh phúc cho nhân dân, tǎng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”.

Bác giải thích điều thứ 5 trong phong trào “5 tốt” vấn đề xây dựng gia đình nuôi dạy con cái, Bác nói: “Gia đình có nghĩa cũ và nghĩa mới, nghĩa hẹp và nghĩa rộng. Rộng ra nữa là đồng bào cả nước đều là anh em trong một đại gia đình. Ta có câu hát:

“Nhiễu diều phủ lấy giá gương

Người trong một nước phải thương nhau cùng”

Rộng hơn nữa chúng ta có đại gia đình xã hội chủ nghĩa:

“Lọ là thân thích ruột rà

Công nông thế giới đều là anh em”.

Đã là đại gia đình, thì sự sǎn sóc dạy dỗ cũng không chỉ nhằm làm cho con cháu mình khỏe và ngoan. Mà phải cố gắng giúp đỡ cho tất cả các cháu đều ngoan và khỏe. Về việc này chúng ta có những gương mẫu như cụ Lê Thị Hoan (Bác nhắc đến tên tôi). Cụ Hoan đã có công giáo dục mấy chục cháu xấu trở thành những cháu tốt. Nếu tất cả chị em phụ nữ ta đều cố gắng làm được như cụ Hoan thì chắc rằng con cháu của chúng ta đều sẽ ngoan và tốt.

Hội trường hướng về phía tôi vỗ tay ầm vang. Lúc này tôi lúng túng quá, chẳng biết làm gì. Tôi cúi mặt xuống, không dám ngẩng lên. Bác lại cǎn dặn các cấp Đảng bộ, chính quyền cần thiết thực giúp đỡ phong trào 5 tốt không ngừng tiến lên, để phụ nữ được đóng góp nhiều cho cuộc chống Mỹ cứu nước.

Sau cùng với giọng nói đầm ấm, Bác vui vẻ hỏi:

Già như cụ Hoan, sao cụ Hoan làm được? Tại sao các cô chưa làm được? Thế các cô có làm không?

Mọi người đều đáp:

– Có ạ? Bác lại hỏi:

– Dạ, họp xong về làm ngay.

Làm được bao nhiêu?

– Thưa Bác làm khắp nơi ạ!

Tôi liếc mắt nhìn Bác, thấy Bác gật đầu tỏ vẻ hài lòng.

Thế rồi, Bác bước xuống bục. Các cô trẻ chạy tràn ra cả lối đi để đón Bác. Bỗng chị Hà Quế đi đến chỗ tôi ngồi, chị gọi:

– Cụ Hoan ơi? Cụ Hoan lên gặp Bác.

Lúc đó tôi bàng hoàng cả người. Vừa mừng vui, vừa lo lắng. Tôi cố nhấc bước lên nhưng chân tay cứ run rẩy vì quá mừng. Tôi chưa đi được mấy bước, cũng vừa Bác đến. Bác cầm tay tôi. Luýnh quýnh tôi chẳng biết nói gì, thưa gì.

Nhưng tôi toát mồ hôi, ác một nỗi các anh quay phim lại chĩa những ngọn đèn sáng rực vào phía tôi.

Như biết tôi đang lúng túng. Bác chỉ vào chiếc ghế:

– Cụ ngồi xuống đây

Tôi mạnh dạn ngồi bên cạnh Bác. Bác ân cần thǎm hỏi gia đình tôi.

– Cụ ông có khỏe không?

– Cụ dạy bao nhiêu cháu, các cháu hiện có ngoan không?

Bác lại hỏi thêm.

– Các cháu đối với cụ thế nào?

– Rất thương ạ! Chúng đều gọi bằng “bà nội”. Và hôm nay các cháu đều cố gắng thực hiện “5 điều Bác Hồ dạy”.

Bác nhìn sang phía chị Nguyễn Thị Thập và các đại biểu rồi Bác hỏi tiếp:

– Đảng ủy, chính quyền, đoàn thể có giúp gì cụ không?

– Cụ còn nguyện vọng gì nữa không?

Bác quay sang các đại biểu trẻ, vui cười nói:

– Muốn Bác mạnh khỏe, muốn miền Nam giải phóng, thì phải ra sức thi đua.

Thế là tất cả chúng tôi đều hô to: “Bác Hồ muôn nǎm?” và cứ vây lấy Người, không muốn rời Người nửa bước.

Cháu Phạm Vǎn Phương, Nguyễn Vǎn Ý lái xe cho bộ đội pháo binh, cháu Nguyễn Vǎn Thanh, Nguyễn Vǎn Thao là học sinh giỏi toàn huyện. Nhiều cháu đi học xa tận các nước đã về làm thợ, làm cán bộ như các cháu Hoàng Đình Nội, Cao Đắc Quý… các cháu cùng chúng tôi có chút ít thành tích nhỏ như vậy là nhờ công ơn dạy bảo của Bác, của Đảng. Và chính Bác là người dạy cho tôi tình yêu trẻ, cách giáo dục trẻ. Lúc sinh thời, người là “Ông Cụ trồng cây giỏi nhất nước”. Và cũng vì yêu cây yêu người, Bác đã từng nói “Vì lợi ích mười nǎm trồng cây, vì lợi ích trǎm nǎm trồng người cho thế hệ mai sau.

Mùa xuân năm 1962, trời lạnh đến tê tái. Một tháng trước tết, Bác Hồ gọi cục phó Cục Cảnh vệ Phan Văn Xoàn lên giao một nhiệm vụ đặc biệt mà chỉ có hai bác cháu biết: “Chú tìm cho bác một gia đình nghèo nhất ở Hà Nội, bác sẽ đi thăm họ lúc giao thừa!”.Tôi có một tháng để đi khắp Hà Nội tìm cho ra một người nghèo nhất.

Hà Nội ngày ấy không giàu, nhưng để tìm ra người “nghèo nhất” vẫn là một thách đố đặc biệt. Tôi liên hệ nhiều nơi, gặp nhiều người vẫn chưa xác định được ai “nghèo nhất”. Cho đến một ngày, một anh công an địa bàn gọi bảo tôi thử tới thăm một người phụ nữ gánh nước thuê ở khu vực anh.

Chúng tôi ghé vào một ngõ sâu trên phố Hàng Chĩnh, đó là một ngôi nhà tăm tối, phên liếp tạm bợ, bên trong chỉ có một chiếc giường tre và vài ghế gỗ lăn lóc. Bàn thờ lạnh tanh hương khói, mạng nhện bao phủ – dù đang là những ngày giáp tết. Có bốn đứa trẻ đang nằm ngồi vật vạ chờ mẹ mang gạo về. Chúng đói. Chủ ngôi nhà ấy là một người phụ nữ ngoài 40 tuổi, tên Nguyễn Thị Tín, góa chồng. Chị vốn là công nhân thất nghiệp và từ lâu nay sống bằng nghề gánh nước thuê. Với chị, tương lai và sự nghiệp của gia đình chỉ là con số 0.

Tôi báo cáo rằng nhiệm vụ Bác giao tôi đã làm xong. Bác gật đầu.

Tối giao thừa ấy, như thường lệ, Bác Hồ đi với đại diện Thành ủy Hà Nội thăm vài gia đình trong kế hoạch. Khoảng 11 giờ tối, Bác nháy mắt với tôi ngụ ý: giờ đến chương trình của hai bác cháu mình.

Chúng tôi tách đoàn, gồm năm người: Bác, người thư ký, một cán bộ địa phương, tôi và một vệ sĩ khác – cùng hướng về phố Hàng Chĩnh. Bác mặc áo bông, quần vải gụ, đi dép cao su, đội mũ len đen và quấn khăn choàng cổ. Không hóa trang nhưng phải nhìn kỹ một tí mới nhận ra Bác được.

Người phụ nữ nghèo khổ xoay người lại nhìn những vị khách, rồi chị bàng hoàng buông rơi đôi quang gánh, chạy bổ tới, quì xuống, ôm choàng lấy chân vị lãnh tụ rồi khóc nấc lên: “Trời, sao Bác lại đến thăm nhà cháu?”. Bác Hồ rưng nước mắt: “Nhà cháu mà không đến thì đến nhà ai!”. Mọi người im lặng. Tôi, thêm một lần nữa, ngước nhìn vị lãnh tụ đất nước mình, thấy Người cao hơn tất cả.

Vào nhà, chúng tôi chia nhau thắp nhang đèn, bày quà bánh Bác dặn mang theo, chia một ít cho bốn đứa trẻ đang ngồi chờ mẹ trên chõng tre giữa nhà. Căn nhà bừng sáng, Bác quay sang hỏi về những đứa trẻ: Các cháu có đi học không? Chị Tín ngập ngừng: “Thưa, có ạ, nhưng thất thường lắm, ngày có ngày không. Chồng mất, cháu thất nghiệp, gánh nước thuê…”. Hỏi: Gánh nước thuê có đủ sống không? Ðến đây thì chị òa khóc: “Lo cái ăn từng ngày thôi, thưa Bác!”. “Giờ cháu có muốn làm việc không?”. “Thưa Bác, hoàn cảnh cháu thì không biết nói sao nữa, cháu muốn có chỗ làm để nuôi con, nhưng tứ cố vô thân, ai nhận cháu?”. Bác gật đầu không nói gì.

Gần 12 giờ, mọi người chúc tết chị Tín và ra về. Lúc này ngoài đầu ngõ, tin Bác Hồ đến thăm nhà mẹ góa con côi của chị Tín đã bất ngờ lan truyền. Hàng xóm rủ nhau khoảng mấy chục người dân đứng chật trong ngõ chờ Bác ra. Tôi hơi bối rối. Bất thình lình Bác bước lại phía mọi người, tiếng vỗ tay vang lên.

Chờ mọi người im lặng, Bác nói: “Bữa nay Bác vui vì tình cờ gặp các cụ, các cô chú, nhưng Bác cũng rất buồn vì mới từ nhà cô Tín ra. Giờ này sắp giao thừa, các cô chú có biết cô Tín còn đi gánh nước thuê không? Tại sao cả một khu phố vầy mà không thấy ai quan tâm đến một gia đình như cô Tín?”. Im lặng, một đại diện khu phố nhận lỗi, hứa sẽ quan tâm nhà chị Tín. Bác tiếp tục: “Bác muốn nói về tinh thần “lá lành đùm lá rách” trong khu phố, nhưng cái lớn nhất vẫn là trách nhiệm của Chính phủ…”.

Bước lên xe, đó là năm đầu tiên tôi thấy đi chúc tết người dân về mà Bác thật buồn. Người quay sang nói: “Các chú thấy chưa? Hôm nay mình đã đi đúng người thật việc thật rồi, nếu mà mình báo trước với thành phố, hỏi nhà nào nghèo nhất thì chắc chắn không phải là nhà cô Tín rồi…”.

Về nơi Bác ở, Bộ Chính trị đã tập họp để chúc tết Bác và cùng đón giao thừa. Bác ngồi vào ghế, mọi người ngồi xung quanh. Bác im lặng tí rồi nói từ từ: “Bữa nay tôi có một chuyến thăm một nhà nghèo nhất thủ đô Hà Nội. Cô Tín, chủ nhà, giờ này còn phải đi gánh nước thuê để có tiền mai mua gạo cho con. Chúng ta đã quá quan liêu để không biết những câu chuyện như vậy ở ngay tại thủ đô đất nước mình. Tôi biết không chỉ có một nhà như chị Tín đâu, người nghèo còn nhiều. Một đảng cầm quyền mà để người dân mình nghèo hết còn chỗ để nghèo thì đó là lỗi của Ðảng với nhân dân…”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng hoa phong lan cho ba đại biểu nữ dân quânQuảng Bình và Vĩnh Linh, năm 1968

…Tháng 11-1959, tôi được điều về công tác ở phòng y tế huyện. Chưa đầy một năm, tháng 9-1960, tôi lại được về tỉnh học bổ túc văn hóa. Không ngờ dịp này, hân hạnh cho tôi: Được gặp Bác Hồ! Tháng 3-1961, Ban Giám hiệu cho biết sẽ có cán bộ Trung ương về thăm. Chúng tôi đều đoán già đoán non, chưa biết là ai. Mọi người còn đang bàn tán giữa sân thì một đoàn ô tô nối đuôi nhau chạy vào cổng. Chúng tôi hồ hộp chờ đợi.

Bác tiến vào giữa tiếng hoan hô reo mừng vang dậy.

Bác đi thăm xung quanh nhà, rồi đến chỗ ăn, chỗ ngủ của chúng tôi. Đến đâu Bác cũng khen sạch sẽ và dặn mọi người chớ để Bác đi rồi lại ở bẩn. Rồi Bác hỏi các em ở trường vùng cao có được ăn no không, có được mặc ấm không, đã biết ngủ màn chưa, biết tập thể dục chưa, có nhớ nhà không?…Tôi nhớ nhất Bác dặn điều này:

Trước lúc ra về, Bác bảo:

Tôi trở về huyện, đi xây dựng cơ sở phòng bệnh các xã. Chưa đầy năm tháng, lại được cử về Thái Nguyên học trường y sĩ. Ban đầu, tôi không muốn nghĩ rằng mình công tác chưa là bao, cử đi học hết lớp này đến lớp khác, cấp trên ưu tiên nhiều quá, ngượng lắm. Các đồng chí huyện bảo: “Đảng và Bác cho cô đi học để sau này phục vụ sức khỏe đồng bào các dân tộc được nhiều. Cô phục vụ được nhiều, được tốt là đền đáp được công ơn đó. Cô cứ về học cho thật giỏi, chớ có ngại ngần gì”.

Có lần nhân câu chuyện kể với các bạn trẻ trong khu Phủ chủ tịch, Bác nói:

“Các cô, các chú bây giờ đi học có trường, có bàn ghế, có thầy cô, có bạn bè, sách vở, giấy bút, có giờ giấc đàng hoàng. Tối đến có đèn điện, thế mà một năm không lên được một lớp là không đúng. Ngày xưa, lúc Bác đang tuổi các cô, các chú thì tất cả bàn ghế, thầy cô, bạn, sách vở, giấy bút chỉ có trong bàn tay này thôi”.

Bác giơ bàn tay trái lên nói tiếp:

“Hồi ấy Bác làm bồi tàu, là người quét tuyết ở Anh, rồi đi làm phụ bếp. Làm việc từ sáng đến tối, suốt ngày không được cầm đến tờ báo mà xem. Đến đem mới hết việc, mới được đọc sách, đọc báo. Ban ngày muốn học chỉ có một cách là viết chữ lên mảnh da tay này. Cứ mỗi buổi sáng viết mấy chữ, rồi đi cọ sàn tàu, cọ thùng, đánh nồi, rửa bát, thái thịt, băm rau, vừa làm vừa nhìn vào da bàn tay mà học. Hết ngày, người thì đầm đìa mồ hôi, chữ thì mờ đi, cuối buổi đi tắm mới xóa được chữ ấy đi. Coi như đã thuộc, sáng mai lại ghi chữ mới.”

“Tôi không có hạnh phúc được theo học ở trường đại học. Nhưng cuộc sống đã cho tôi cơ hội được học lịch sử, khoa học xã hội và ngay cả khoa học quân sự. Phải yêu cái gì? Phải ghét cái gì? Cũng như tôi, tất cả người Việt Nam cần phải yêu độc lập, lao động, Tổ quốc”.

“Tất nhiên không phải riêng tôi mà toàn thế giới đều kính trọng những nhà báo chân chính. Tôi cũng có thời gian học làm báo, cũng có thời gian tôi bỏ ngòi bút, cầm súng để chống lại kẻ thù, chống lại chủ nghĩa thực dân. Khi tôi còn ở Pháp, khi còn biết ít tiếng Pháp, tôi đã là tổng biên tập, biên tập và phát hành cả một tờ báo.”

Bác thường nói với cán bộ:

( Theo Một số lời dạy và mẩu chuyện về tấm gương đạo đức của Chủ tịch HồChí Minh,Nxb. Chính trị quốc gia, 2007 )

Sài Gòn năm 1911. Năm ấy, Bác Hồ hai mươi mốt tuổi. Một hôm, anh Ba – tên của Bác Hồ bấy giờ – được một người bạn đưa đi xem đèn điện ở trước của tiệm cà phê của Pháp, xem chiếu bóng và máy nước. Những cái đó trước kia anh chưa hề thấy.

Hai người dắt nhau đi nhiều nơi trong thành phố, những cảnh tượng đầy rẫy bất công đập vào mắt họ. Đột nhiên anh Ba hỏi người bạn:

Người bạn ngạc nhiên và đáp:

Anh có thể giữ bí mật được không?

Nhưng bạn ơi, chúng ta lấy đâu ra tiền mà đi?

Đây, tiền đây! – Anh Ba vừa nói vừa giơ hai bàn tay – Chúng ta sẽ làm việc. Chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì để sống và để đi. Anh cùng đi với tôi chứ?

Bị lôi cuốn vì lòng hăng hái của anh Ba, anh Lê đồng ý. Nhưng sau đó anh Lê không đủ can đảm để giữ lời hứa. Thế là chỉ có một mình anh Ba, rời cảng Nhà Rồng bước chân xuống tàu để đi sang các nước, trước hết là sang Pháp.

Với quyết tâm và lòng yêu nước sâu sắc, Bác đã làm nhiều nghề khác nhau như: phụ bếp, bồi bàn, quét tuyết,…suốt từ 4 giờ sáng đến 9 giờ tối hằng ngày. Bác chỉ mong sao tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc.

Hồi ở Pác Pó, sáng ra Bác thường bố trí công việc cho chúng tôi làm. Ai không có việc được Bác tìm việc cho. Ai đã sắp xếp được công việc trong ngày, Bác thấy vui dù việc làm ấy rất nhỏ. Bác thường hỏi từng người:

Tôi cũng như các anh em khác thường được Bác chăm lo như vậy. Đặc biệt là khi chúng tôi nghiên cứu tài liệu, Bác thương hướng dẫn rất chu đáo giúp chúng tôi đi vào nền nếp. Đối với anh chị phục vụ, Bác cũng ân cần chỉ bảo. Tôi nhớ có lần Bác nói với chị Trưng người Cao Bằng:

Việc nhắc nhở thương xuyên của Bác rèn luyện cho mọi người ở cạnh Bác có một thói quen sắp xếp công việc hàng ngày, rèn luyện cho bộ óc chúng tôi quen làm việc có kế hoạch, tránh sự tùy tiện tản mạn và nhất là tránh nhàn rỗi.

Vì thích bóng chuyền và bơi nên Bác đề ra nguyên tắc chỗ ở của Bác trên Chiến khu nên cách nới Chính phủ đóng khoảng 3km, phải có bãi để làm sân bóng và có suối để bơi. Tìm được chỗ ở như vậy cũng khó nên chúng tôi xin phép Bác tìm sân, suối cách đó từ 500m đến 1km.

Sau mỗi ngày làm việc mệt nhọc, Bác cháu cùng nhau đánh bóng chuyền. Hôm nào không đủ người đánh bóng chuyền thì đi bơi. Tôi thường bố trí hai người khỏe để bảo vệ Bác.

Về mùa hè, những lần Bác đi công tác phải trải qua sông, qua suối, chúng tôi thường chuẩn bị thuyền hoặc mảng để đưa Bác qua. Nếu nước lớn, chảy xiết thì Bác đi thuyền. Gặp những hôm trời lặng, nước chảy từ từ thì Bác không chịu ngồi thuyền, ngồi mảng mà tự bơi. Chúng tôi cử một người bơi giỏi cùng bơi vớiBác. Lên bờ, Bác nói:

Sau này nhữngphim tư liệu hiếm hoi ghi lại cuộc sống của Người trên chiến khu cho chúng ta thấy được hình ảnh của Bác lội suối, băng rừng, đầu đội tấm áo vừa đi, vừa phơi cho khô. Hình ảnh của một vị lãnh tụ thật gần gũi với nhân dân.

Về Hà Nội, điều kiện bơi và đánh bóng bị hạn chế nên năm 1959 chúng tôi đưa Bác ra Bãi Cháy nghỉ vài ngày. Sáng lấy ca nô đưa Bác ra đảo nghỉ ở đó đến tối mới về, đem theo cả nồi niêu nấu cá luôn. Những chuyến đi như thê này giúp Bác nghỉ ngơi, thư giãn và có điều kiện gần dân hơn.

Đó là câu hỏi đầu tiên của Chủ tịch khi Cụ bước vào phòng khách. Sau khi vui vẻ mời chúng tôi ngồi, Cụ tiếp ngay:

Buổi sáng mùa hè hôm đó, nước da của chủ tịch có một màu hồng khỏe mạnh và đôi mắt sáng ngời, đôi mắt của thanh niên.

Có mấy đoàn thể cùng vào chung để chúc thọ. Giới thiệu đến Uỷ ban Đời sống mới, Cụ bỗng hỏi như níu lại:

Chủ tịch như đang ngơ ngác trước những danh từ to lớn của tôi. Thực tình tôi lo: nếu Chủ tịch không hiểu thì quần chúng hiểu sao đây. Mà quả thật, Cụ đứng hẳn về phía quần chúng. Cụ nói:

Mọi người nhìn nhau và tôi không giấu nổi vẻ bối rối. Tôi nói về tuyên truyền, tổ chức,.. Cụ lắng nghe. Một họa sĩ ngồi đối diện Cụ Hồ ở cuối bàn, lặng lẽ ghi trên giấy hình ảnh vị Chủ tịch hòa nhã. Khi tôi nói hết, Cụ lắc đầu nhìn tôi, nhìn mọi người, tay gân guốc vỗ vào bụng và nói:

Cả bọn chúng tôi người bàn thế này, người bàn thế nọ. Cụ chậm rãi nói một cách nghiêm trang.

Và sợ chúng tôi hoài nghi, Cụ nhắc lại:

Cụ đưa mắt nhìn mọi người như để căn dặn điều đó

… Đến đây Cụ đứng dậy vì có khách chờ.

Hôm ấy, Bác mặc quần áo gụ, đội mũ lá cọ, chân đi dép cao su, quần xắn đến đầu gối, khăn vắt trên vai, tay chống gậy đi ra cánh đồng thăm bà con nông dân đang tát nước.

Mới 10 giờ mà trời nắng như đổ lửa, chúng tôi – những cán bộ đi theo cũng thấm mệt, mồ hôi vã ra như tắm tràn xuống mắt giàn giụa, tràn xuống miệng mặn chát. Bác đi rất nhanh, mặc dù đường sống trâu, Bác vẫn thoăn thoắt đặt chân trên các gồ đất cách nhau 30-40 cm một cách nhẹ nhàng như một lão nông thực thụ. Đến dầu một con mương, đồng chí chủ tịch Hà Đông thấy bờ mương hẹp, khó đi, vội chạy lên trước để mời Bác đi theo đường chính. Bác xua tay và rẽ vào bờ mương để đến chân ruộng bà con đang lao động giữa cánh đồng bị hạn. Tất nhiên chúng tôi phải đi sau và cố hết sức mới kịp. Đến một chỗ bờ mương bị xé ra 1,5m để tát nước gần đấy, đồng chí Chủ tịch lại chạy lên định dắt Bác đi, chưa kịp thì Bác đã nhảy phắt và đi tiếp sang bên kia. Những người đi sau, người nhảy qua được, người phải men xuống ruộng để qua.

Thấy Bác đến, lại còn mặc như lão nông, bà con vui mừng bỏ cả gầu đổ xô lại vây quanh Bác rất đông. Có cháu thiếu niên 14-15 tuổi len đến gần Bác, đưa tay lên vuốtrâu Bác. Bác thân mật hỏi thăm mọi người, bắt tay bà con, rồi nói bằng giọng miền Bắc pha xứ Nghệ ấm áp:

Thuở nhỏ, đã nhiêu năm, tôi sống với bà con làng xóm làm nông nghiệp, tôi hiểu nỗi cơ cực cả bà con khi trời hạn hán. Bây giờ chúng ta có chính quyền, bà con làm chủ ruộng đồng, gặp lúc thiên tai, phải cùng nhau chống hạn, cứu lúa.

Mọi người “vâng ạ!” thật rõ và to.

Sau đó Bác lên đạp guồng cùng một Bác nông dân ngoài 50 tuổi, để bác nông dân đỡ vất vả và được nhiều nước, Bác căn dặn chính quyền thôn xã phải tích cức huy động bà con biết nghề mộc xẻ gỗ để đóng guồng.

Bà con hỏi Bác đủ thứ chuyện. Bác đều trả lời thân mật, dễ hiểu. Trước khi chia tay với bà con nông dân, Bác đã đọc hai câu thơ:

“Hỡi ai bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần”.

Mọi người xúc động đứng mãi tại nơi đã gặp Bác, vẫy chào tạm biệt.

Cuối năm 1968, Tông cục trưởng Lâm nghiệp được Bác mời lên báo cáo về tình huống cây gây rừng. Sau khi thú thật với Bác làm mấy năm nay, phần thì thiên tai, lũ lụt, phần thì địch phá hoại, phần lớn nữa là dân đót rừng, chặt cây, gây cháy rừng nên rừng bị phá hoại nhiều trong khi dân vẫn cần nhiều gỗ để làm nhà. Nhà nước cần giữ rừng để chống lụt, giữ nước đầu nguồn,…Tổng cục trưởng nói:

Và Tết năm 1969, Bác lại viết bài “Tết trồng cây”…

Bác hỏi đồng chí Bí thư:

Bác nhấn mạnh chữ “định” ý muốn nhắc Nghệ An đã “quyết” chưa?

Bác giao hẹn:

39 đồng chí tỉnh ủy viên, trong đó có 3 nữ ( không được một phần mười “ít quá” như Bác đã nhận xét buổi đầu câu chuyện), đều hứa sẽ thực hiện đúng lời Bác dạy.

Giữa tháng 5 năm 1946, được tin đoàn cán bộ miền Nam ra Bắc đang ở tại nhà ông Bộ trưởng Bộ giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến thăm đoàn. Người hỏi thăm sức khỏe của đoàn và tình hình Nam Bộ. Khi biết chiến trường cán bộ rất cần súng, Người nói: “Thế nào Trung ương và Chính phủ cũng có súng gửi vào Nam. Nhưng nước ta còn nghèo, các cô chú về, phải đánh Pháp cho giỏi, cướp lấy nhiều súng của nó dùng thì cái vốn đó mới nhiều”.

Sang đến năm 1967, Bác Hồ của chúng ta đã già và yếu đi nhiều. Nhưng ngày ba bữa, Bác vẫn tự mình từ nhà sàn đi bộ xuống nhà ăn. Một phần, không muốn phiền anh em phục vụ, phần nữa, Bác muốn đặt ra cho mình một kỷ luật, buộc mình phải vận động, rèn luyện, chống lại suy yến của tuổi già .

Các đồng chí phục vụ Bác rất áy náy. Phần thương Bác vất vả, ngày nắng còn ngày mưa, phần lo Bác già yếu, chẳng may vấp nã, nếu có chuyện gì thì ảnh hưởng lớn đến công việc của đất nước và của Đảng.

Ngày đó, con đường quanh ao cá chưa được tôn tạo như bây giờ. Sau những trận mưa lớn, đường đi còn ngập nước. Nhưng đến giờ ăn, dù đang còn mưa, Bác vẫn xắn quần quá đầu gối, cầm ô, cùng đồng chí bảo vệ, lội nước đi sang nhà ăn. Nhìn ống chân Bác gầy gò, nổi gân xanh, anh em thương Bác, trào nước mắt, nhưng không sao thuyết phục được Bác cho phép dọn cơm bên nhà sàn.

Có hôm, buổi sớm, Bác vào thay quần áo xong, đến bữa, gặp trời mưa, Bác không muốn các đồng chí phục vụ phải giặt nhiều, Bác cởi quần dài, gập lai, cắp nách, sang đến nơi mới mặc vào. Bác coi mình cũng chỉ là một người phục vụ và xem các đồng chí phục vụ cũng như mình nên không muốn làm phiền ai. Tuy vậy, các đồng chí phục vụ Bác vẫn cố gắng tìm mọi cách để có thể thay đổi tình tình ấy.

Một hôm, Bác gọi cho chị Trần Thị Lý, người con gái miền Nam vào ăn cơm với Bác. Bác mờ vào ngày Chủ Nhật, nhưng hôm đó đồng chí Lý lại đi vắng nên hôm sau chị mới vào được.

Hôm đó, trời mưa rất to. Đồng chí Vũ Kỳ cho dọn cơm ngay bên dưới nhà sàn để Bác ăn cùng chị Lý. Thương chị Lý thương tật, đau yếu, đường mưa trơn, đi lại khó khăn, bữa đó Bác Hồ đồng ý ở lại ăn cơm dưới nhà sàn. Hôm sau, các đồng chí phục vụ lại dọn cơm dưới nhà sàn,mời Bác ăn, coi như đã có một tiền lệ và không thỉnh thị Bác. Nhưng Bác đã cho gọi đồng chí Vũ Kỳ đến và phê bình:

Ý Bác đã rõ, Bác muốn mỗi ngày ba bữa, mỗi bữa ăn, đi vòng quanh hồ một lần, như một kỷ luật với bản thân. Tuổi già, cũng giống như trẻ thơ, muốn được chiều chuộng. Bác biết: nếu dễ dãi với mình và để người khác dễ dãi với mình dần dần sẽ hư thân đi.

Không ai sinh ra đã trở thành lãnh tụ. Muốn trở thành vĩ đại nhân, phải có chí rèn luyện. Làm Chủ tịch nước tồi, trở thành lãnh tụ kính yêu của cả giai cấp và dân tộc rồi, Bác Hồ vẫn không ngừng rèn luyện. Vì vậy, ở vị trí càng cao, càng nổi tiếng, tinh hoa, phẩm chất, đạo đức của Bác càng sáng, càng trong.

( Theo Tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh,

Ở khách sạn Các- tơn, hằng ngày có người phục vụ dưới bếp. Những người này, sau khi khách ăn xong, có nhiệm vụ phải thu dọn bát đĩa… và đổ tất cả thức ăn thừa vào một thùng to rồi đem đổ đi. Có những khi thức ăn thừa là một phần tư con gà, hau cả đĩa bánh mì và những miếng bít tết to tướng…

Đến lượt anh Thanh làm phụ bếp, những thức ăn thừa của khách, anh đem để riêng và đậy lại cẩn thận, sạch sẽ, sắp xếp gọn gàng rồi đưa cho nhà bếp.

Thấy vậy ông đầu bếp Ết-cô-phi-e hỏi lại anh:

Ông chủ bếp và mọi người nhìn anh, biểu hiện một sự quý mến và khâm phục trước tấm lòng yêu thương của anh trước người nghèo khổ.

Nếp sinh hoạt, cách ăn mặc của Bác đã thành thói quen,Người luôn có ý thức trước những việc làm đó. Từ những năm tháng hoạt động ở nước ngoài, lúc ở Thái Lan, khi về Trung Quốc, về nước thời kỳ bí mật ở Cao Bằng hay khi làm chủ tịch nước, những năm tháng kháng chiến, lúc về thăm nông dân gặt hái hay làm thượng khách ở nước ngoài , Bác luôn luôn với một tư thế giản dị, ung dung, tự tại, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh. Dù ở đâu, lúc nào, Bác cũng để lại ấn tượng tốt đẹp, một phong cách mẫu mực của một lãnh tụ. Hành trang Bác mang theo tự nói lên một điều chân thực: Làm chức càng cao càng phải giản dị. Làm Chủ tịch nước, Bác nhận lấy cho mình cái quyền đượcsống giản dị, bằng mức sống bình thường của người dân. Các đồng chí được giao nhiệm vụ phục vụ Bác,tìm mọi cách để lo cho Bác chu tất về mọi mặt. Nhưng Bác luôn có cái lý của Bác, thời kỳ chiến khu gian khổ Bác bảo chưa cần thiết, khi làm Chủ tịch nước Bác bảo dân còn nghèo.

Tư trang của Bác bao giờ cũng ở mức cần thiết cho sinh hoạt, nhưng Bác luôn luôn lo cho sự thiếu, đủ của từng người. Đến thăm thương binh, bác lo từng chiếc áo ấm cho họ. Lúc vào trại tù binh, thấy tù binh thiếu áo, Bác cũng lo áo cho họ, cử ngĩa đó làm bớt đi căng thẳng thù hận giữa con người với con ng ười , của hai dân tộc. Trong gian khổ kháng chiến, Bác cùng chịu đựng đói, no, giá lạnh như người chiến sĩ. Không lo cho riêng mình, Bác lo cho chiến sĩ trước. B á c là người khởi xướng phong trào “mùa đông chiến sĩ” vận động nhân dân không những lo cái ăn mà còn lo cái mặc cho chiến sĩ. Ở hậu phương có ai có thành tích lo cho cái mặc ấm của các chiến sĩ Bác đều gởi thư khen ngợi.

Có lần Bác đi thăm một nhà máy, Bác xuống tận tổ công nhân đang cho chạy máy, Bác đến hỏi han công việc, chất xút bắn vào áo, tạo thành nhiều vết khác màu áo, Bác bảo đồng chí phục vụ khắc phục làm cho vết xút và màu áo gần giống nhau, và chiếc áo lại dùng được bình thường. Tất cả những áo quần đó đều mang vết nên không thể gi ấu Bác mà thay cái mới được, thay cái khác là Bác biết, Bác phê bình ngay. Đồng chí Cần, chuyên lo ăn uống, quần áo cho Bác. Đồng chí tâm cỡ người như Bác, đồng chí may vừa là Bác mặc vừa. Quần áo thường ngày Bác thích màu gụ, nên khi may xong đồng chí mang sang xí nghiệp Tô Châu nhuộm gụ. Bộ nào hơi cũ là đồng chí t hay bộ khác cùng kiểu, cùng màu nên Bác không biết. Một thời gian sau Bác thấy quần áo vẫn mới. Bác bèn đánh dấu rất kín và phát hiện ra là đồng chí đã đổi quần áo của Bác. Bác liền phê bình, từ đó rất khó thay đổi quần áo của Bác. Áo Bác dùng lâu, giặt đigiặt lại nhiều lần nên cổ áo bị sờn và rách dần, khi mọi người đề nghị Bác cho thay cái mới, Bác bảo “Cả cái áo mới bị sờn chỗ cổ mà vứt đi thì không được, chú chịu khó tháo rồi lộn trong ra ngoài, may lại vẫn lành như mới’. Làm theo ý Bác được mấy lần, sau không thể “khắc phục” được nữa Bác mới cho thay cái mới.

Đôi bít tất Bác đi cũng vậy, bị thủng ở đầu ngón chân Bác cũng bảo vá lại cho Bác dùng, vì không biết làm thế nào nên xuống nhờ các cô ở Bộ nội vụ giúp. Các cô đề nghị thay đổi khác cho Bác nhưng Bác dặn bít tất của Bác chỉ hỏng mũi còn các chỗ khác vẫn nguyên lành, chỉ nhờ các cô khâu lại, nếu đem đổi đôi khác là Bác không dùng đâu. Khi Bác dùng lại đôi tất, khen các cô khéo tay, Bác nói “Chú xem, chỉ cần chịu khó một tí là có một đôi bít tất như mới”. Lần sau, đôi bít tất đó thủng hai chỗ trước và sau, rồi lại lần nữa, các cô phải khâu lại đến ba lần. Bác thường dùng khăn mặt vuông, vì khăn mặt vuông tiết kiệm hơn khăn mặt hình chữ nhật, mỗi khi dùng xong Bác có thói quen phơi lên dây, giữ cho hai phép dưới bằng nhau. Bác tìm mấy hòn quậy nhỏ xếp vào hộp xà phòng, khi dùng xong Bác để xà phòng lên những hòn cuội, xà phòng mau khô, nên tiết kiệm.

Khi về Hà Nội, Bác vẫn dùng dép cao su. Đôi dép Bác dùng lâu ngày vẹt cả đế, quai bị tuột luôn, đóng đinh găm quai nhiều mà vẫn bị tuột, có kiên trì và khéo tay mới làm lại được, khi sửa xong vẫn thấy dùng được là Bác cứ dùng. Thấy dép Bác cũ, hỏng nhiều, các đồng chí phục vụ đề nghị thay đôi khác, Bác không chịu. Anh em bàn “kế hoạch” làm một đôi khác thật giống đôi dép Bác đang đi, chỉ có khác là chắc, bền hơn,lợi dụng thời cơ thay vào.

Một lần Bác đến thăm một đơn vị hải quân,các chiến sĩ lần đầu gặp Bác, ai cũng muốn được gần Bác nên chen chúc nhau làm tuột quai dép của Bác. Bác bảo chú nào khéo tay sửa lại cho Bác. Ai cũng giành lấy để giúp Bác, thế rồi đôi dép được chuyền tay nhau những không ai sửa được vì đôi dép đã quá vét mòn, đã đóng đỉnh mấy lần rồi, xâu vào nó lại tuột ra. Có người nhanh chân kịp lấy búa và đinh sửa lại cho Bác. Có người yêu cầu Bác đổi dép khác, Bác bảo: “Dép đã sửa xong, khi nào không sửa được hẵng hay, giờ mua đôi khác không cần thiết, vẫn dùng được sao vứt đi, dân ta còn nghèo, mỗi người kể cả Chủ tịch nước cũng phải tiết kiệm.”

Có mẩu chuyện vui về đôi d á p của Bác. Lần đó xem phim, tất cả mọi n g ười ngồi bệt xuống mặt đất, Bác để dép ngay ở phía trước để khi về tiện lấy và không nhầm lẫn. Xem phim xong Bác cùng mọi người chụp ảnh. Cô gái ngồi cạnh Bác thấy đôi dép đã cũ, không biết dép Bác, sợ xấu mất ảnh, vươn người với tới định cất đi. Bác nhanh tay hơn với trước, vội cất ra sau và nói vui: “Ờ đúng rồi, ph ải giấu nó đi chứ vào ảnh hỏng ảnh mất.”

Đầu năm 1958, đi thăm Ấn Độ, Bác vẫn đi đôi dép thường ngày. Mọi người trong đoàn thấy thế rất ái ngại nên bàn nhau mang theo một đôi giầy vải. Lên máy bay nhân lúc Bác ngủ, thay đôi dép bằng đôi giày vải. Khi thức giấc Bác hỏi dép, anh em trả lời Bác dép đã để dưới khoang máy bay. Khi xuống sân bay, Bác yêu cầu lấy dép để Bác đi, Bác bảo đừng lo gì cả, đất nước Ấn Độ cũng nghèo như nước mình, mới có độc lập nên còn nhiều vất vả. Bác đi dép có bít tất thế là rất tốt, họ không chê mình đâu. Nhân dịp này Bác muốn gần gũi với nhân dân lao động Ấn Độ. Hôm sau trên các trang báo lớn Ấn Độ đều hết lời ca ngợi Bác là vị Chủ tịch nước dân chủ nhất thế giới, ca ngợi đôi dép Bác Hồ là một huyền thoại. Hôm Bác đến một ngôi chùa, Bác cởi để dép ở ngoài, các phóng viên được dịp tha hồ quay phim, chụp ảnh đôi dép huyền thoại đó.

Lo cho dân, Bác không chỉ ngồi ở bàn giấy rồi nghe báo cáo, mà Bác trực tiếp xuống tận cơ sở đến với từng người lao động để hiểu rõ hơn tình hình thực tế. Đi đâu Bác cũng chỉ dùng xe “Pabeda”do nhân dân Liên Xô gửi tặng. Xe dùng lâu ngày nên đã cũ và hay hỏng vặt, văn phòng đề nghị Bác đổi xe khác tốt hơn, Bác không đồng ý, Bác bảo: “Ai thích đi nhanh, thích êm thì đổi, còn Bác thì không”. Có hôm đến giờ đi công tác, xe không nổ máy được, Bác ôn tồn bảo đồng chí lái xe: “Máy móc cũng có lúc trục trặc. Chú cứ bình tĩnh sửa, sửa xong Bác cháu đi cũng kịp”, mấy phút sau xe mới nổ máy được, Bác cười vui vẻ và nói: “Thế là xe vân còn tốt”.

Ở Bác, tiết kiệm là hành trang trong cuộc đời. Thật cảm động khi biết rằng, bản di chúc của Bác đã đi vào lịch sử dân tộc được Bác viết ở mặt sau tờ tin hàng ngày của Việt Nam Thông tấn xã.

Hành trang của Bác – của một vị lãnh tụ, giản dị như hành trang của một người dân bình thường, bởi Bác sống không chỉ cho riêng mình.

Tại buổi giao l với tuổi trẻ các l c lượng vũ trang khu v c miền Trung và vùng 3 Hải quaan vào đầu tháng 3-1968, nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang Trần Thị ý đã xúc động kể lại kỷ niệm sâu sắc 3 lần được gặp Bác Hồ. Mỗi lần gặp Bác, th o chị đó là một lần được Người dạy bảo về đạo làm người, truyền thêm sức mạnh và niềm tin, chắp cánh cho chị suốt cả cuộc đời…

Ngày mồng 10 tháng 5 năm 1951, Bác Hồ viết thư gửi các cháu học sinh trường Việt Bắc:

Người ta đã nói nhiều rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực về sự giản dị và khiêm tốn. Người nói thẳng và dùng từ ngữ đơn giản trong đời sống hằng ngày cũng như trong bài viết và trong các bài diễn văn của mình. Người không bao giờ quên nguồn gốc xuất thân cũng như kinh nghiệm người từng là một người lao động bình thường, Người có những tư tưởng cao thượng và tầm nhìn xa trông rộng. Người không bao giờ quên những nỗi thống khổ mà nhân dân Việt Nam và các dân tộc khácđã phải trải qua dưới áp bức của chủ nghĩa thực dân và áp bức của chủ nghĩa tư bản.

Bài học thứ nhất: Sự khiêm tốn không thừa

Tháng 1-1967, sau Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua toàn quốc, Đoàn đại biểu tỉnh Quảng Bình được Bác ưu tiên cho gặp riêng tại phủ chủ tịch hơn 30 phút. Không khí buổi gặp rất ấm cúng. Bác hỏi kỹ hoàn cảnh của từng người, thành tích lập được trong hoàn cảnh nào? Đời sống quê hương ra sao…Người dặn dò cả đoàn: Thành tích của các cô, các chú và các cháu, ngoài sự nỗ lực của cá nhân, còn có sự đóng góp và động viên to lớn của tập thể. Bởi vậy phải hết sức khiêm tốn, học tập phấn đấu thêm, tránh cho bằng được sư kiêu căng tự mãn. Cả đoàn đều rưng rưng, thầm hứa sẽ phấn đấu để xứng đáng hơn nữa, ai cũng mong cho thời gian gặp Bác được dài hơn. Thấy cả đoàn bịn rịn không muốn chia tay Bác, Bác nói: “Ở Quảng Bình có bài “Quảng Bình quê ta ơi” hay lắm- nghe nói cháu Lý có hứa với thủ tướng nếu được gặp Bác sẽ hát riêng cho Bác nghe. Bây giờ hãy hát cho Bác và Thủ tướng cùng nghe”. Chị Lý: “Thưa Bác, được gặp Bác cháu xúc động quá, cho phép cháu được cầm càng cho đoàn Quảng Bình hát tặng Bác và Thủ Tướng”. Bác gật đầu đồng ý…

Bài học thứ hai: Bất cứ việc gì cũng phải làm việc tỉ mỉ, chu đáo.

Tháng 7-1967, đang học văn hóa tại trường văn hóa quân khu, chị Lý nhân được tin vui: ra thủ đô để đi thăm Cu-ba. Trong thời gian làm thủ tục, một vinh dự nữa đến với chị, chị được gặp Bác lần hai.

Đêm trước khi được gặp Bác, chị không sao ngủ được. S á ng hôm sau, chị đã có mặt rất sớm để được đón đến Phủ Chủ Tịch. Vừa xuống xe thì đồng chí Vũ Kỳ thông báo: “Bác cho gọi cháu vào gặp. Bác đang làm cỏ ở vườn, cháu cứ vào”. Mừng quýnh, chị chạy lại chỗ Bác. Người dùng tay, vuốt mồ hôi trên trán và ân cần: “Lý đấy hả cháu, từ sau đại hội đến giờ, về làm những chi mà đen và gầy thế!”. Chị xúc động không nói nên làm, Bác nhanh nhẹn đi về phía nhà sàn. Đứng ngắm Bác không mỏi thấy Bác gài lệch chiếc cú c áo lụa mỏng, chị xin phép gài lại hàng cúc áo cho Bác. Hai Bác cháu ngồi lại dưới sàn. Bác hỏi: “Nghe nói cháu được đi nước ngoài phải không?”. Chị Lý: “Thưa Bác, được đi nhưng cháu lo quá.” Bác hỏi việc chuẩn bị thế nào, khi nghe chị kể được các chú may cho cái áo dài, giày da đen cao gót, những thứ mà chị chưa hề quen sử dụng, còn ngập ngừng và lúng túng lắm. Bác nói: ” Mình đi thăm nước bạn, cũng là để báo cáo kinh nghiệm chiến đấu của mình cho bạn học tập chưa không phải là tiểu thư đi du lịch. Để Bác nói cho chú Song Hào chuẩn bị bộ đồ bộ đội và dép cao su cho cháu”. Bác hỏi kỹ về việc chuẩn bị sổ tay, bút ghi chép. Khi nghe chị nói mang theo cây bút máy mà đại hội tặng, Bác bảo: ” Không được, bút mực không tiện, sang đấy hết mực thì biết lấy ở đâu? Tốt nhất là bút bi,nếu không có bút bi dùng bút chì gọt cả hai đầu”. Ngừng một lát, Bác nói tiếp: “Sang đó cháu phải ghi chép đầy đủ, về còn nói chuyện cho bên nhà nghe”. Bác dặn tiếp: ” Theo kinh nghiệm của Bác tiếp khách quốc tế, không tham nói dài, chuẩn bị cho kỹ nội d ung thật xúc tích, dễ nghe, dễ hiểu, không cầu kỳ, kiểu cách”. Rồi như chợt nhớ, Bác hỏi tiếp: ” Ra Hà Nội cháu đi được những đâu, cháu có biết tượng Lý Tự Trọng ở phố nào, quay về hướng nào không?”. Thấy chị lúng túng, Bác quay lại nhắc mấy chú: “Cháu Lý ra Hà Nội, cong nhiều bỡ nhỡ, các chú phải hướng dẫn cho cháu biết Hà Nội có bao nhiêu phố phường, có di tích gì? Cho cháu đi chơi phố phường phải dẫn cháu đi bộ để cháu nhớ, tuyệt đối đừng dùng xe chở vì như thế chỉ như “cưỡi ngựa xem hoa”, không biết và không nhớ được những gì đâu”. Tạm biệt Bác ra về, lòng chị trào lên một nỗi niềm xúc động trước sự chăm lo chu đáo của Bác.

Bài học thứ ba: Tiết kiệm từ thứ nhỏ nhất

Sau chuyến đi Cuba về, Bác cho gọi chị Lý vào ăn cơm cùng, mâm cơm giản dị gồm có một tô canh bí đao, một đĩa cá bống nhỏ và một đĩa thịt gà. Bác n ói vui: ” Hôm nay có khách, Bác giết gà để đãi khách đấy”. Trong bữa ăn, Bác luôn miệng giục và gắp thịt gà cho chị. Đang ăn cơm có báo động, bác cháu lại phải xuống hầm. Bữa cơm gián đoạn đến mấy lần. Khi đơm cơm cho Bác, chị sơ ý làm r ơ i mấy hạt cơm ra mâm, Bác nhặt lên cho vào bát và quay sang hỏi chị: “Quê mình bây giờ còn dùng đá để đập hạt sần(ngô) không!”. Chị thưa: “Có n ơ i còn dùng nhưng đại đa số nhân dân đã dùng công cụ khác như máy xay, cối xay tay.” Tuy không nói ra nhưng chị hiểu ý Bác nhắc nhở: Dân mình còn nghèo, phải hết sức tiết kiệm, hạt gạo là hạt ngọc chớ để lãng phí. Ăn cơm xong, Bác hỏi: ” Cháu học lớp mấy, đã biết đọc bản đò chưa? Ở Quảng Bình nơi nào bị đánh phá ác liệt nhất, cháu chỉ cho Bác xem”. Thấy chị lúng túng, Bác bảo: “Phải cố mà học, cán bộ quân sự phải biết bản đồ, còn phải hướng dẫn cho chiến sĩ”. Trước khi chia tay, Bác dặn dò: “Được đi thăm Cuba, được gặp Bác, được ăn c ơ m với Bác, về công tác cho tốt lập thành tích xuất sắc hơn, lần sau ra báo cáo t hành tích Bác cho gặp nữa…”

Xe đến, Bác xuống vẫy chào bà con đến đón. Các cháu thiếu nhi ùa ra vây quanh Bác.

Các đồng chí lãnh đạo địa phương định đưa Bác vào nhà khách trước, nhưng Bác đã ngăn lại và nói:

– Tôi nhớ chỗ này còn có hàng cây.

Sau đó, Bác đi ra cửa sau chỉ vào chỗ hàng rào nói:

Khi ra ngõ gặp một cụ già, Bác nhìn cụ rất cảm động và hỏi:

Bác đi nhanh tới cụ già và nắm lấy tay cụ hỏi bằng một giọng ấm áp:

Bác nói chuyện với cụ Điền một hồi lâu, rồi sau đó đi sang quê ngoại.

Đứng giữa ngôi nhà tranh đơn sơ, nơi Bác đã sinh ra và lớn lên, Bác thân mật cùng trò chuyện cùng bà con quê nhà.

Mùa thu năm 1964, tôi là thành viên trong Đoàn đại biểu Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Namdo đồng chí Trần Văn Thành dẫn đầu, ra thăm miền Bắc và dự hội nghị Quốc tế đoàn kết với nhân dân Việt Nam.

Một buổi sáng tháng Mười, xe đưa chúng tôi vào Phủ Chủ Tịch. Giữa lòng Thủ đô mà cảnh vật có những nét giống núi rừng quê hương.

Đoàn chúng tôi vừa xuống xe đã thấy Bác đứng chờ ngay ngoài sân. Bác ôm hôn thắm thiết đồng chí Trần Văn Thành và từng người trong đoàn.

Chúng tôi xúc động và tràn ngập vui sướng theo chân Bác đến dãy bàn tiếp khách kê ngay ngoài vườn đầy hoa thơm và nắng ấm. Thấy tôi mặc bộ quần áo dân tộc Cơ Tu, Bác cười bảo:

Bác bảo tôi ngồi cạnh Bác. Vui mừng, sung sướng và xúc động xen lẫn lòng tôi. Lần đầu tiên được gặp Bác, chúng tôi không ngăn nổi xúc động. Chị Ngần, chị Cao và tôi đều bật khóc. Bác dịu dàng nhìn chúng tôi và nói:

Chúng tôi lau nhanh nước mắt. Cả đoàn chúng tôi quây quần bên Bác. Bác rơm rớm nước mắt khi nhìn em Hồ Văn Bột mang đầy thương tích do bom napan của giặc Mĩ gây nên. Bác âu yếm bảo em Bột hãy giữu gìn sức khỏe và tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ ở miền nam cho toàn thế giới biết.

Rời Bác quay sang tôi, trìu mến hỏi:

Bác bảo tôi kể cho Bác nghe tình hình sản xuất và chiến đấu của đồng bào, tình hình đời sống của bà con dân tộc về phong trào thanh niên, phụ nữ, bộ đội du kích ở vùng người Cơ Tu,Ve, nơi tôi sinh sống và hoạt động.

Cây rừng bao nhiêu lá thì đồng bào và phụ nữ các dân tộc đối với Bác có bao nhiêu ân tình. Tấm lòng của đồng bào các dân tộc đối với Bác bao giờ cũng trong như dong nước Đắc Pring, mãi chảy xuôi về dòng.

(Theo Bác Hồ với đất Quảng, Nxb.Chính trị quốc gia,

Tết Mậu Thân năm 1968 đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong cuốc đấu tranh chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta.

Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua

Thắng trận tin vui khắp nước nhà

Tiến lên!Toàn thắng ắt về ta!

Bác Hồ yên lặng đón giao thừa. Tiếng Bác trên đài hòa cùng tiếng nhác hùng tráng như một nguồn động viên lớn lao với chiến sĩ cả nước.

Từ trong căn phòng nhỏ ấy, lời Bác nói một cách khe khẽ nhưng nghe rất rõ: “Giờ đây miền Nam đang nổ súng”.

Thì ra trong lúc này, không phải Bác chỉ ngồi để nghe tiếng pháo nổ, mừng năm mới mà chính Bác đang hướng về Tổ Quốc, hướng về đồng bào chiến sĩ đang chiến đấu hi sinh ngoài mặt trận.

Sang sớm hôm mồng một Tết Mậu Thân, Bác nhận được tin ” Cả miền Nam đều nổ sung”. Kẻ thù hung ác của dân tộc bị một đòn đau bất ngờ, choáng váng.

Bác Hồ vui trong niềm vui chiến thắng của chiên sĩ, đồng bào cả nước.

(Theo Thư ký Bác Hồ kể chuyện – Vũ Kỳ,Nxb.Chính trị Quốc gia, 2005)

Thời gian quý báu lắm

Thế là Bác lên đường đến thăm lớp chỉnh huấn đúng lịch trình trong tiếng reo hò sung sướng của các học viên…Bác Hồ của chúng ta quý thời gian của mình bao nhiêu thì cũng quý thời gian của người khác bấy nhiêu. Chính vì vậy, trong suốt cuộc đời Bác không để bất cứ ai đợi mình. Sự quý trọng thời gian của Bác thực sự là tấm gương sáng để chúng ta học tập.

Đôi dép Bác Hồ – Lối sống giản dị

Mười một năm rồi vẫn đôi dép ấy… Các chiến sĩ cảnh vệ cũng đã đôi ba lần “xin ” Bác đổi dép nhưng Bác bảo “vẫn còn đi được ” .

Ba chiếc ba lô – Sự công bằng

– Đi đường rừng, leo núi ai mà chẳng mệt, tập trung đồ vật cho một người mang đi thì người đó càng chóng mệt. Cứ phân ra mỗi người mang một ít. Khi mọi thứ đã được phân ra cho vào 3 ba lô rồi, Bác còn hỏi thêm:

Giữ lời hứa

– Cháu ở nhà nhớ ngoan ngoãn, khi nào Bác về Bác sẽ mua tặng cháu. Nói xong Bác vẫy chào mọi người ra đi. Hơn hai năm sau Bác quay trở về, mọi người mừng rỡ ra đón Bác. Ai cũng vui mừng xúm xít hỏi thăm sức khỏe Bác, không một ai còn nhớ đến chuyện năm xưa. Bỗng Bác mở túi lấy ra một chiếc vòng bạc mới tinh trao tận tay em bé – bây giờ đã là một cô bé. Cô bé và mọi người cảm động đến rơi nước mắt. Bác nói:

Bạn đang xem bài viết Tôn Vinh Người Phụ Nữ Việt Nam trên website Boxxyno.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!