Cập nhật thông tin chi tiết về Sưu Tầm, Vận Dụng Ca Dao, Tục Ngữ Vào Giảng Dạy Phần Triết Học Trong Môn Giáo Dục Công Dân mới nhất trên website Boxxyno.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Lấy ví dụ minh họa trong dạy phần Triết học trong môn GDCD đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc gắn kết chặt chẽ những quy luật triết học với những luận cứ thực tiễn. Thông qua các ví dụ minh họa làm cho bài giảng sinh động, có tính thuyết phục cao hơn. Qua đó, khơi dậy niềm say mê học tập cũng như rèn luyện cho người học khả năng liên hệ, phân tích, vận dụng tư tưởng triết học vào thực tiễn cuộc sống. Trên cơ sở đó, bài viết sưu tầm và vận dụng ca dao, tục ngữ vào giảng dạy triết học nhằm nâng cao chất lượng dạy học phần Triết học trong môn giáo dục công dân hiện nay. 1. Vận dụng ca dao, tục ngữ minh họa về quan điểm duy vật, quan điểm duy tâm trong triết họcViệt Nam cũng giống như các dân tộc phương Đông khác, về mặt triết học thường ít bàn về thế giới quan mà chủ yếu bàn về nhân sinh quan. Do đó, vấn đề duy vật và duy tâm khá mờ nhạt so với triết học phương Tây. Một số câu ca dao, tục ngữ đã chứng minh rằng, từ xa xưa, người Việt ta đã có những câu hỏi và lý giải mang tính triết học rất cao. Những câu hỏi mà người Việt đặt ra trong quá trình tác động vào thế giới khách quan thường là vũ trụ này do đâu mà có? Tại sao có mưa, nắng, lũ lụt, biển cả? Tại sao sinh ra được muôn loài?
Ai là người sinh ra mặt đất? Bà Chày sinh ra mặt đất Ông Chày sinh ra bầu trời Ai là người tạo ra bầu trời? Sông kia ai bới, ai đào mà sâu? Nước non là nước non trời Ai ngăn được nước ai dời được sông?
Từ xưa, ông cha ta đã có quan niệm mang tính duy vật sâu sắc, không viện dẫn đến thần linh khi cho rằng nguồn gốc của trời đất, muôn loài là do có sự hòa hợp, kết hợp giữa hai mặt đối lập khác biệt nam, nữ, âm, dương hợp thành.
Mệnh do ngã lập, khúc do kỷ cầu.
Mặc dù người dân chưa lý giải được nguồn gốc của vũ trụ nhưng có quan điểm duy vật khi cho rằng thế giới vật chất tồn tại khách quan, không do thần linh nào tạo ra, độc lập với ý thức con người.
Thức đêm mới biết đêm dài Lội sông mới biết sông nào cạn sâu.
(Khẳng định vai trò làm chủ bản thân, làm chủ vận mệnh của mình. Số mình do mình tự tạo ra, hạnh phúc do mình tự tìm đến).
(Khuyên con người trong nhận thức và hoạt động cần phải bám sát thực tiễn, phải xuất phát từ thực tế khách quan).
Thì trời giáng họa cây khoai giữa đồng.
Bên cạnh những quan niệm mang tính duy vật chất phác, người Việt xưa cũng có quan niệm mang tính rõ nét khi thần thánh hóa sức mạnh của Trời. Đối với họ, Trời là một lực lượng siêu tự nhiên có thể thông hiểu cuộc sống con người, có sức mạnh vạn năng, chi phối cuộc sống con người. Theo quan niệm của người Việt thì Trời không phải là “đấng sáng tạo” mà chỉ là “bao công” luôn trừng trị kẻ xấu. Trời đóng vai trò phân xử, chi phối cuộc sống con người mà thôi. Ai mà nói dối cùng ai,
Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo.
Từ chỗ cho rằng số phận con người không thể thay đổi được nên người dân nghèo có tư tưởng tự ti, an phận, thủ thường:
Cha mẹ sinh con trời sinh tính.
(Quan niệm duy tâm về số phận con người, xem con người có số phận).
2 Vận dụng ca dao, tục ngữ minh họa tư tưởng biện chứng, tư tưởng siêu hình
(Phủ nhận môi trường giáo dục gia đình, cho rằng tính người do trời định).
Có cột có kèo mới có đòn tay. Không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời.
Từ xưa người Việt Nam đã có cách nhìn tổng thể về bức tranh sinh động của thế giới vật chất. Đó là tính thống nhất trong sự vận động, biến đổi và phát triển không ngừng của thế giới, đó là các sự vật luôn nằm trong mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Từ sự quan sát các hiện tượng tự nhiên trong đời sống thường ngày, người Việt Nam đã thấy được sự tác động qua lại giữa các sự vật hiện tượng, có sự ràng buộc nhất định giữa chúng. Đó chính là mối liên hệ phổ biến, tính nhân quả, sự vận động và phát triển không ngừng của thế giới tự nhiên, xã hội:
(Tư tưởng biện chứng, thời cuộc thay đổi, cuộc sống con người cũng thay đổi không có cái gì là vĩnh viễn).
Một người làm nên cả họ được cậy, Một người làm bậy cả họ mất nhờ.
(“Nhập giang” có nghĩa là lội xuống sông, “nhập gia” là vào nhà. Nghĩa là: Lội sông phải tuỳ khúc, vào nhà phải tuỳ tục. Hành động phải phù hợp với thực tế khách quan).
(Tư tưởng biện chứng, ý nói mối liên hệ lẫn nhau giữa các thành viên trong dòng họ).
Người có lúc vinh lúc nhục, Nước có lúc đục lúc trong.
(Tư tưởng biện chứng cho rằng, con người luôn chịu ảnh hưởng bởi môi trường xung quanh).
(Sự vật hiện tượng luôn thay đổi, không có cái gì là bất biến).
Nhờ có phương pháp tư duy biện chứng và khả năng quan sát tinh tế mà người Việt Nam đã đúc rút được kinh nghiệm, dự đoán về thời tiết, khí hậu khá chính xác nhằm phục vụ cho lao động sản xuất và cuộc sống của mình. Mặt khác, tư duy biện chứng giúp cho họ thích nghi với hoàn cảnh, hạn chế đến một mức độ nhất định thiệt hại do hiện tượng tự nhiên gây ra.
Ngắn tay với chẳng tới trời.
Trong vốn ca dao, tục ngữ dân tộc, còn có rất nhiều câu thể hiện tư tưởng duy tâm, siêu hình, nó phản ánh đời sống thực tiễn của xã hội thối nát, bất công trong chế độ phong kiến.
Thân ai nấy lo, phận ai nấy giữ.
(Quan hệ xã hội phong kiến thối nát, bất bình đẳng. Thân phận những người nghèo khổ bị oan ức không thể bày tỏ được với người có quyền lực).
3. Vận dụng ca dao, tục ngữ minh họa về nhận thức và thực tiễn Anh tưởng giếng nước sâu,
(Tư tưởng siêu hình, sống chỉ biết bản thân mình, không có mối liên hệ, quan tâm tới người khác).
Học khôn học đến chết, học nết học đến già; Ông bảy mươi học ông bảy mốt.
(Nhận thức phải là một quá trình, đôi khi con người mắc phải sai lầm trong nhận thức).
Dốt đến đâu học lâu cũng biết.
(Người Việt quan niệm học là để làm người nên việc học tập phải xảy ra suốt đời).
(Quan niệm tiến bộ về nhận thức cho rằng, nếu chúng ta cần cù chịu khó, miệt mài học tập sẽ hiểu biết được nhiều kiến thức).
Non cao cũng có người trèo, Đường dẫu hiểm nghèo cũng có lối đi.
(Người Việt quan niệm nhận thức của con người mang tính tương đối, do đó không nên đánh giá con người một cách toàn bích).
Đã đẵn thì vác cả cành lẫn cây.
(Không có cái gì là con người không làm được).
Lội sống mới biết sông nào cạn sâu.
(Khi đã làm thì kiên quyết không dao động, quyết làm cho bằng được).
(Trong nhận thức phải lấy thực tiễn làm thước đo chân lý).
Trăm hay không bằng tay quen; Đi một ngày đàng, học một sàng khôn.
(Quan niệm duy vật, tôn trọng thực tiễn, nhận thức phải dựa vào thực tiễn, lấy thực tiễn làm thước đo chân lý).
(Mối quan hệ giữa thực tiễn và nhận thức, trong mối quan hệ đó, thực tiễn đóng vai trò quyết định).
(Mục đích của nhận thức là để phục vụ thực tiễn, trong nền nông nghiệp lúa nước, học tập là để có tri thức ứng dụng trong sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất lao động).
Như vậy sưu tầm và vận dụng ca dao, tục ngữ là một phương pháp, cách thức liên hệ thực tiễn hết sức sống động, dễ đi vào lòng người trong dạy học Triết học nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy học Triết học hiện nay.
Đề Tài Vận Dụng Ca Dao, Tục Ngữ, Thơ Trong Giảng Dạy Môn Giáo Dục Công Dân Ở Các Lớp 6, 7
Ca dao, tục ngữ, thơ rất gần gũi và gắn bó với con người Việt chúng tôi từ khi mới lọt lòng ca dao, tục ngữ, thơ đã đến với tuổi ấu thơ qua lời ru của mẹ, lớn lên ca dao, tục ngữ, thơ là người thầy răn dạy con người đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Ca dao, tục ngữ, thơ là người từ ngữ được chọn lọc chính xác và được gọt giũa qua nhiều thời gian. Qua truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc.
Chính vì lẽ đó nên trong quá trình giảng dạy môn GDCD theo sách giáo khoa ở các lớp 6, 7.Tôi đã mạnh dạn sử dụng vào trong tiết dạy, để làm gần gũi hơn ca dao, tục ngữ, thơ Việt Nam với các em học sinh, học sinh nhanh chóng nhận biết được các khái niệm của bài và ý nghĩa giáo dục của ca dao tục ngữ,thơ qua bài dạy. Bên cạnh đó học sinh sẽ tiếp xúc bài học hứng thú hơn, giờ học sinh đông hơn.
MỤC LỤC Trang I. PHẦN MỞ ĐẦU 2 1. Lý do chọn đề tài 2 2. Mục đích nghiên cứu 2 3. Đối tượng phạm vi nghiên cứu 2 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 2 5. Phương pháp nghiên cứu 2 6. Nội dung đề tài 3 II. NỘI DUNG ĐỀ TÀI 3 3 1. Cơ sở pháp lý 3 2. Cơ sở lý luận 3 3. Cơ sở thực tiễn 3 Chương II: Thực trạng của đề tài nghiên cứu 4 1. Khái quát phạm vi 4 2. Thực trạng của đề tài nghiên cứu 4 3. Nguyên nhân 4 Chương III: Biện pháp chủ yếu để thực hiện đề tài 4 1. Cơ sở đề xuất các giải pháp 4 2. Các giải pháp chủ yếu 4 2.1. Sử dụng thơ ca để giới thiệu bài 5 2.2. Sử dụng thơ ca, tục ngữ trong hoạt động khai thác kiến thức mới 6 2.3. Sử dụng thơ ca, tục ngữ trong việc củng cố bài học 8 2.4.Hướng dẫn học sinh sưu tầm thơ , ca dao, tục ngữ ở nhà 9 3. Nội dung vận dung ca dao, tục ngữ, thơ qua các bài dạy GDCD lớp 6,7 10-15 III. KẾT LUẬN NGHIÊN CỨU 16 IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 16 1. Kết luận 16 2. Kiến nghị 16 IV. TÀI LIỆU THAM KHẢO 17 Sáng kiến kinh nghiệm Đề tài VẬN DỤNG CA DAO, TỤC NGỮ, THƠ TRONG GIẢNG DẠY MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN Ở CÁC LỚP 6,7 I/ PHẦN MỞ ĐẦU: 1. Lí do chọn đề tài: Ca dao, tục ngữ, thơ rất gần gũi và gắn bó với con người Việt chúng tôi từ khi mới lọt lòng ca dao, tục ngữ, thơ đã đến với tuổi ấu thơ qua lời ru của mẹ, lớn lên ca dao, tục ngữ, thơ là người thầy răn dạy con người đạo lý tốt đẹp của dân tộc. Ca dao, tục ngữ, thơ là người từ ngữ được chọn lọc chính xác và được gọt giũa qua nhiều thời gian. Qua truyền thống lịch sử hào hùng của dân tộc. Chính vì lẽ đó nên trong quá trình giảng dạy môn GDCD theo sách giáo khoa ở các lớp 6, 7.Tôi đã mạnh dạn sử dụng vào trong tiết dạy, để làm gần gũi hơn ca dao, tục ngữ, thơ Việt Nam với các em học sinh, học sinh nhanh chóng nhận biết được các khái niệm của bài và ý nghĩa giáo dục của ca dao tục ngữ,thơ qua bài dạy. Bên cạnh đó học sinh sẽ tiếp xúc bài học hứng thú hơn, giờ học sinh đông hơn. 2. Mục đích nghiên cứu: Mục đích: Phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động sáng tạo tự học, tác động đến tình cảm đem lại niềm vui, tạo hứng thú học tập cho học sinh. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu. - Học sinh học môn GDCD lớp 6, lớp 7 trường THCS Tôn Đức Thắng. 4. Nhiệm vụ nghiên cứu: Thông qua đối tượng nghiên cứu chúng ta rút ra những giải pháp cần thiết trong quá trình giảng dạy môn GDCD để giúp học sinh lĩnh hội tri thức tốt hơn, vận dụng điều đã học vào thực tế 5. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu đề tài này bản thân tôi đã sử dụng những biện pháp sau: - Phương pháp điều tra qua những tiết dự giờ của đồng nghiệp cùng bộ môn, điều tra mức tiếp thu của học sinh và việc đánh giá kết quả của từng tiết dạy - Phương pháp phân tích tổng hợp tài liệu qua tham khảo sách báo. - Phương pháp dạy học phát huy tính tích cực sáng tạo chủ động của học sinh thông qua những câu hỏi nêu vấn đề. - Phương pháp thực hành thực nghiệm qua những tiết dạy khối 6,7.Bản thân tôi đã thực nghiệm và rút ra kinh nghiệm. 6. Nội dung đề tài nghiên cứu: " Vận dụng ca dao ,tục ngữ ,thơ trong giảng dạy môn GDCD lớp 6,7" II.NỘI DUNG NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI: CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở pháp lý: Như chúng ta đã biết ngành giáo dục đã trải qua rất nhiều cuộc cải cách giáo dục và đã phấn đấu thực hiện mục tiêu đào tạo thế hệ trẻ ,đáp ứng phù hợp với yêu cầu của giai đoạn cách mạng mới . Với mục tiêu giáo dục phổ thông là " giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc". Đó là cơ sở lí do tôi chọn đề tài này 2. Cơ sở lý luận: Phương pháp vận dụng ca dao tục ngữ ,thơ trong giảng dạy nhằm giúp cho học sinh tham gia chủ động trong quá trình học tập .Học sinh tự biết mình phải nôi theo những tấm gương nào, anh hùng nào, làm điều tốt như thế nào , yêu thương con người cần phải làm gì và có thể nói những câu ca dao,thơ, tục ngữ đã tác động đến tâm lí ,hành vi của các em và từ đó hướng các em đi đúng con đường mà xã hội đang cần và mong muốn. 3. Cơ sở thực tiễn: Môn GDCD phải hoàn thành nhiệm vụ cơ bản là tổ chức giáo dục học sinh hiểu được những chuẩn mực đạo đực và pháp luật cơ bản, phổ thông thiết thực phù hợp với lứa tuổi học sinh THCS. Hình thành cho các em tình cảm, niềm tin đạo đức pháp luật và hành vi thói quen đạo đức và ý thức pháp luật của mỗi học sinh. Hầu hết học sinh THCS còn nhỏ tuổi. Việc hiểu các khái niệm còn trực tiếp, cảm tính cho nên đòi hỏi giáo viên phải có phương pháp giáo dục thích hợp để học sinh cảm nhận và tự nâng lên thành nhận thức và ý thức của bản thân. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU 1) Khái quát phạm vi nghiên cứu: Đây là đề tài đề cập đến sự vận dụng ca dao, tục ngữ, thơ trong giảng dạy, tức là làm thế nào vận dụng những câu thơ, câu ca dao, câu tục ngữ, thiết thực để học sinh khắc sâu kiến thức, giờ dạy hiệu quả . 2) Thực trạng của đề tài: Đa số học sinh có sự vận dụng tốt, biết vâng lời bố mẹ và thầy cô. Nhưng còn nhiều em học sinh cho rằng đây là môn phụ nên thường ít hứng thú trong học tập . Ở lứa tuổi các em tư duy còn rất cụ thể, nên khi truyền thụ kiến thức cho chúng, ta cần vận dụng tất cả các phương pháp trong dạy học. Đặc biệt là phương pháp vận dụng ca dao,tục ngữ ,thơ . Khi vận dụng những câu ca dao, tục ngữ học sinh say mê nghiên cứu những ngôn ngữ trong ca dao, tục ngữ, thơ trong sáng tinh tuý đã được mài giũa qua thời gian.Hơn thế nữa ca dao, tục ngữ, thơ vừa có sức gần gũi vừa có sức thuyết phục kỳ diệu đối với học sinh đến với bài dạy 3) Nguyên nhân của thực trạng: Trong quá trình dạy học, có một số giáo viên quá đặt nặng kiến thức phần kênh chữ, phần kênh hình nên chỉ sơ lược phần ca dao, tục ngữ, xem nhẹ . Hiện nay, với sự bùng nổ thông tin nên ngoài kênh hình có trong SGK thì tranh ảnh, phim tư liệu phục vụ đắc lực cho việc dạy học lịch sử rất nhiều. do đó bỏ qua những câu thơ, ca dao,câu tục ngữ để rút ra kiến thức mới. Hoặc có khai thác nhưng ít ,nên kết quả không cao. - Ý thức học tập của học sinh chưa cao còn xem nhẹ môn GDCD - Đồ dùng dạy học chưa đầy đủ - Kỉ năng sống của các em còn hạn chế nên chưa biết vận dụng những điều đã học vào cuộc sống. CHƯƠNG III: NHỮNG BIỆN PHÁP ,GIẢI PHÁP CHỦ YẾU 1.Cơ sở đề xuất: Thực tế cho thấy qua giảng dạy một số bài GDCD lớp 6,7 tôi thấy các em chưa hiểu sâu các khái niệm, biểu hiện và các biện pháp rèn luyện. có nhiều em chưa phân biệt được đâu là ý nghĩa, đâu là biện pháp, các em chưa thực sự hiểu rõ qua thực tế cuộc sống các em đã có đức tính đó hay chưa? Nếu chưa có thì phải làm thế nào?Qua khảo sát kết quả học tập của học sinh tôi thấy các em chỉ mới hiểu được 65% yêu cầu bài học đề ra. 2.Các biện pháp chủ yếu: * Giáo viên lập kế hoạch dạy học, chuẩn bị toàn bộ -Thiết kế bài dạy một cách cụ thể, hơp lí, kết hợp các phương tiện, thiết bị dạy học với các phương pháp dạy học . -Đảm bảo tính hệ thống, liên hệ với thực tiễn -Đặt ra các tình huống học tập vừa sức với học sinh *Học sinh: -Phải có sgk -Sưu tầm ca dao,tục ngữ từ người thân, nười lớn tuổi trong gia đình, tạp chí, sách báo các phương tiện truyền thông đại chúng . 2.1. Sử dụng thơ ca, tục ngữ để giới thiệu bài mới: *Vận dụng thơ ca: " Có gì đẹp trên đời như thế Người yêu người sống để yêu nhau " Rõ ràng con người sống phải biết yêu thương đồng loại của mình. Không ai có thể sống mà không có tình yêu thương, yêu thương là lẽ sống, là sức mạnh giúp con người vượt qua khó khăn, gian khổ. Vậy thế nào là yêu thương con người, làm thế nào để thể hiện lòng yêu thương với mọi người xung quanh, lòng yêu thương có ý nghĩa như thế nào trong cuộc sống chúng ta cùng gước vào bài học này. *Vận dụng ca dao : Trong giao tiếp hằng ngày, để gây thiện cảm với người đối diện, chúng ta phải có cư sử lịch sự, hành vi trang nhã, lời nói tế nhị,cư sử đúng mực vậy nên ông cha ta đã dạy : "Lời nói chẳng mất tiền mua Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau " Nói cho vừa lòng người khác là biểu hiện sự tôn trọng, quan tâm, là người có văn hóa, có đạo đức. Hôm nay chúng ta cùng tìm hiểu một chuẩn mực đạo đức rất cần thiết đó là tính lễ độ . Kho tàng ca dao tục ngữ việt nam rất phong phú về nội dung và cách diễn đạt. Đặt biệt là mảng câu nói về tính cách con người, kể cả những câu mng ý nghĩa tích cực khuyên văn giáo dục hay phê phán thói hư tật xấu .Giáo viên đều có thể vận dụng vào mở đầu bài học sao cho phù hợp. 2.2. Sử dụng thơ ca, tục ngữ trong hoạt động khai thác kiến thức mới: Trong dạy học kiến thức mới, giáo viên phải sáng tạo trong phương pháp dạy học phát huy tính chủ động, tích cực, tự giác của học sinh. Chú trọng rèn luyện phương pháp tư duy, ... nhặt những lỗi nhỏ của nhau, luôn thông cảm, tôn trọng và biết tha thứ cho nhau thì câu tục ngữ "Đánh kẻ chạy đi, không ai đánh kẻ chạy lại" đã giúp tôi khẳng định điều đó. Một trong những truyền thống quý báu của dân tộc là lòng biết ơn.Thì ca dao, tục ngữ, thơ đã nêu rõ điều đó cho chúng ta. Uống nước nhớ nguồn Ăn quả nhớ kẻ trồng cây (Tục ngữ) Vận dụng những câu tục ngữ đó để học sinh dễ hiểu lòng biết ơn là biểu hiện sự trân trọng quá khứ. Những nét đẹp trong truyền thống gia đình, tổ tiên, làng xóm, dân tộc. Nhớ ơn những người đã ngã xuống hoặc hiến một phần xương máu vì độc lập tự do của tổ quốc, nhớ ơn cha mẹ những người đã sinh thành nuôi dưỡng và biết ơn những người đã giúp đỡ mình, và học sinh hiểu đầy đủ hơn "Biết ơn" không phải là một món nợ "Có vay, có trả" mà ý thức được người khác giúp ta nhiều lúc ta không trả ơn được. Ta lại giúp người khác và sống tốt đẹp hơn đó là quy luật của cuộc sống . Đến phần tìm ra những biện pháp rèn luyện "Biết ơn" mà sách giáo khoa chưa nêu rõ, với bài thơ "Mẹ ốm" đã khắc hoạ cho các em hiểu rõ, các em cần có thái độ, cử chỉ làm vui lòng cha mẹ , thầy cô như Trần Đăng khoa đã thể hiện. Mẹ vui con có quản gì Ngâm thơ kể chuyện rồi thi múa ca Rồi con diễn kịch giữa nhà. Một mình con đóng cả ba vai chèo (Trần Đăng Khoa) Trong bài "Tôn sư trọng đạo"lớp 7 tiết 10 bài 7, ca dao,tục ngữ thật quá phong phú khi đưa vào giảng dạy, để nêu bật ý nghĩa quan trọng của"Tôn sư trọng đạo" tôi đưa câu tục ngữ: Không thầy đố mày làm nên Nhất tự vi sư, bán tự vi sư Học sinh sẽ giải thích được không ai có thể trở thành tài giỏi mà không có sự dạy dỗ của các thầy cô giáo. Trong xã hội thầy, cô giáo thực sự là những người đáng kính đáng mang ơn. Một cây làm chẳng lên non Ba cây chum lại nên hòn núi cao. (Ca dao) Qua đó học sinh rút ra được bài học "Đoàn kết tương trợ là sự thông cảm chia sẽ giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn", ý nghĩa của đoàn kết tương trợ cũng là nội dung bài học quan trọng. Vận dụng bài thơ "Hòn đá" của Hồ Chí Minh: Hòn đá to, hòn đá nặng Một người nhấc, nhấc không lên Hòn đá nặng, hòn đá bền Nhiều người nhấc, nhấc lên đặng (Hồ Chí Minh) Học sinh sẽ say mê khi nghiên cứu tìm tòi qua ca dao tục ngữ, thơ và qua bài "Hòn đá" sẽ nêu lên được "Đoàn kết tương trợ là sự thông cảm chia sẽ giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn".Qua ca dao, tục ngữ, thơ đã giúp chúng ta hiểu rõ siêng năng là sự cần cù, tự giác, miệt mài, nhưng nếu ta cần mẫn siêng năng mà không biết tiết kiệm,sử dụng hợp lý thành quả lao động cũng vô ích. Để thấy được mặt trái của tính tiết kiệm tôi cho học sinh tìm các câu ca dao, tục ngữ trái với tiết kiệm. Miệng ăn, núi lỡ Vung tay quá trán Bóc ngắn cắn dài (Tục ngữ) Qua đó học sinh sẽ thấy được trái với tiết kiệm là hoang phí, nếu như ta tiêu phí của cải, thời gian, sức lực quá mức cần thiết thì đến một lúc nào đó ta sẽ không còn gì cả, cuộc sống sẽ trở nên khó khăn, khốn khổ bởi vì không tiết kiệm và phẩm chất tiết kiệm sẽ mãi mãi hằn sâu vào trí thức của các em qua câu ca dao: Tiết kiệm sẵn có đồng tiền Phòng khi túng lỡ không phiền lụy ai Thật là phong phú và thú vị vô cùng nếu như những ai biết vận dụng những câu ca dao, tục ngữ xa xưa của ông cha ta làm sáng tỏ nội dung bài hoc. Những câu ca dao, tục ngữ đã được ông cha ta chắt lọc và trưởng thành qua thực tế, để cho đến bây giờ. Một thời đại mới đã mở ra quá hiện đại với công nghệ thông tin...Nhưng những cái giản dị, chân chất, mộc mạc ấy vẫn còn tồn tại cho đến bây giờ và mai sau. Để cho học sinh hiểu rõ đó cũng là một trong những bản sắc văn hoá của dân tộc. Một trong những bản sắc văn hoá của dân tộc đó là lối sống "Giản dị" lớp 7 của con người việt nam được ca dao tục ngữ đem lại cho chúng ta vô số những ví dụ dẫn chứng lý thú, chính xác.Bởi ngôn ngữ trong ca dao, tục ngữ, thơ trong sáng tinh tuý đã được mài giũa qua thời gian.Hơn thế nữa ca dao, tục ngữ, thơ vừa có sức gần gũi vùa có sức thuyết phục kỳ diệu đối với học sinh. Đến với bài dạy "Giản dị"lớp 7, để hình thành khái niệm "Giản dị" qua mẫu chuyện sách giáo khoa nêu lên đức tính giản dị của Bác Hồ để làm sống lại và toả sáng hơn dức tính đó của Bác Hồ kính yêu, tôi đã minh hoạ thêm các câu thơ của Tố hữu. Nhà gác đơn sơ một góc vườn Gỗ thường mộc mạc chẳng mùi sơn Giường mây chiếu cói đơn chăn gối Tủ nhỏ vừa treo mấy áo sờn Qua hình ảnh của Bác các em sẽ hình thành được người sống giản dị "không sống xa hoa, lãng phí, không cầu kỳ kiểu cách" các em học sinh sẽ phân biệt được cái đẹp thực chất với sự phô trương bề ngoài bằng các câu tục ngữ. Tốt gỗ hơn tốt nước sơn (Tục ngữ) Giảng dạy môn GDCD nếu như người giáo viên không sáng kiến tìm tòi các ví dụ các câu thơ, ca dao,tục ngữ thì giờ học sẽ không gây hưng phấn cho học sinh. Bởi có nhiều người quan niệm môn học quá khô khan cứng nhắc. Nhưng đối với người dạy sẽ cảm nhận môn học quan trọng biết bao nhiêu bởi nhân cách học sinh tốt hay xấu cũng phụ thuộc một phần quan trọng ở kết quả giáo dục của môn GDCD. Để khi ra đời làm con người của xã hội, của tổ quốc, sắn sàng làm tất cả những gì cho đất nước thân yêu, những người công dân tương lai này hành trang trên vai là những tri thức khoa học, là những phảm chất "Lễ độ" "Biết ơn", "Yêu thương con người", "Khoan dung", "Tiết kiệm"....... không thể thiếu được trong tâm hồn của mỗi người, để sau này các em những người "Sống chan hoà với mọi người" và "Biết tôn trọng Kỉ luật" trong bất cứ lĩnh vực nào. Học sinh không chỉ trao dồi tri thức mà còn rèn luyện phẩm chất đạo đức theo chuẩn mực chung của xã hội . Sau này lớn lên, có đủ tài ,đủ đức để cống hiến cho đất nước, cho nhân dân. Tiết 6 bài 5 lớp 6. Có thể đức tính "Tôn trọng Kỉ luật " là rất quan trọng đối với mỗi con người khi đang còn là học sinh hay làm ở các cơ quan, nhà máy.... thì việc tôn trọng kỷ luật cũng rất cần thiết. Để nhấn mạnh thêm về điều quan trọng, khi dạy bài "Tôn trọng kỉ luật" lớp 6 trước khi kết thúc bài học, để giúp học sinh nhớ mãivà lâu hơn đức tính này tôi đã dùng câu tục ngữ Đất có lề, quê có thói Nước có Vua, chùa có bụt Và học sinh hiểu nhiều hơn, bất cứ lĩnh vực nào? Ở đâu, lúc nàocũng có luật lệ phép tắc mà mọi người tuân theo. *Kết luận : Ca dao, tục ngữ, thơ Việt Nam như những phép màu, có thể sử dụng bất kỳ trong lĩnh vực nào của khoa học, xã hội. Đó là sức sống mãnh liệt trong từng câu, tững chữ, trong bài giảng dạy môn GDCD ca dao, tục ngữ, thơ làm phong phú hấp dẫn hơn qua mỗi bài học . Giờ học GDCD không còn như trước đây "Khô khốc khó nuốt"mà bài học giờ đây để lại ấn tượng sâu sắc và học sinh cũng sẽ cảm nhận được môn GDCD cũng đầy hấp dẫn và lý thú. Đó cũng là nhờ sự vận dụng tài tình của giáo viên qua ca dao tục ngữ thơ, đó là một công cụ, một phương pháp sắc bén để bài dạy mãi mãi sống động, cô động trong trí nhớ của học sinh. III.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU: Qua sử dụng ca dao tục ngữ và kết hợp với những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh.Tôi thấy rằng học sinh dễ hiểu hơn hứng thú say sưa học hỏi hơn, bài học sinh động dễ hiểu hơn. Kết quả so với trứớc học sinh nắm, hiểu bài cao hơn 92% học sinh tiếp thu tốt. Qua nhiều năm giảng dạy môn GDCD ở trung học cơ sở bằng sự nỗ lực học hỏi, bằng nhận thức của bản thân. Tiếp thu tinh thần đổi mới phương pháp dạy học kết hợp qua các giờ dạy của bạn bè đồng nghiệp đã giúp tôi thành công trong nhiều bài dạy. Kết quả về bộ môn giảng dạy năm 2010- 2011 đạt Loại giỏi: 35% Khá: 55% Trung bình:10% IV.KẾT LUẬN,KIẾN NGHỊ 1.Kết luận 2. Kiến nghị: Mọi hoạt động vật chất lẫn tinh thần của con người luôn hướng đến mục tiêu mang lại hiệu quả cao nhất. Việc dạy môn GDCD cũng thế. Tuy nhiên việc tìm ra phương pháp dạy học hay tạo sự hứng thú, phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập là điều quan trọng. Vì vậy tôi có một số kiến nghị sau: - Đề nghị phòng giáo dục cung cấp thêm sách bài tập GDCD lớp 6, 7 8 các sách tham khảo cho GV và học sinh về bộ môn. - Về phía nhà trường: Quan tâm đặc biệt đến môn học này đó là hỗ trợ kinh phí để có một phần thiết bị đồ dùng dạy học phù hợp với bộ môn Hòa Thành, ngày 20 tháng 10 năm 2011 Người Viết Võ Thị Ngọc Kim DANH MỤC THAM KHẢO - SGK, SGV môn Giáo dục công dân - Sách chuẩn kiến thức, kỷ năng môn GDCD - Lí luận dạy học của trường phổ thông NXBGD - 1980 - Sách rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh . - Sách ca dao việt nam của NXB Trẻ. - Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn GDCD trung học cơ sởTriết Lý Giáo Dục Trong Ca Dao, Tục Ngữ Việt Nam
Ngày đăng: 25/12/2013, 15:02
MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ V (khóa VIII) đã chỉ rõ: “Bên cạnh việc phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, hết sức coi trọng, bảo tồn, kế thừa và phát huy những giá trị văn học truyền thống, văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể”. Tinh thần đó tiếp tục được bổ sung và khẳng định trong kết luận của Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX: “Trong quá trình mở rộng hội nhập kinh tế quốc tế và giao lưu văn hóa, cùng với việc tập trung xây dựng những giá trị mới của Việt Nam đương đại, cần đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống của dân tộc”. Để đạt được những mục tiêu trên chúng ta phải tiến hành đồng thời nhiều biện pháp khác nhau. Một trong những biện pháp có vai trò hết sức quan trọng đó là cần xuất phát từ những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, mà nhân tố góp phần tạo nên sức mạnh của truyền thống đó là kho tàng văn học dân gian nói chung, ca dao, tục ngữ nói riêng. Ca dao, tục ngữ là di sản tinh thần quý báu, là kho tri thức về kinh nghiệm cuộc sống và đạo lý làm người, là “túi khôn” mà ông cha ta đã dày công xây dựng và lưu giữ. Những triết lý giáo dục sâu sắc, đậm chất nhân văn về thế giới, về con người của nhân dân ta đã được khái quát và đúc kết qua ca dao, tục ngữ sẽ có tác dụng quan trọng trong việc xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Là cơ sở định hướng cho hoạt động thực tiễn giáo dục và xây dựng con người. Vận dụng ca dao, tục ngữ nhằm khơi dậy niềm say mê học tập của học sinh, sinh viên trong việc giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa 1 Mác – Lênin và môn Giáo dục công dân trong các trường trung học phổ thông. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, nếu huyền thoại và truyền thuyết tạo nên tâm điểm căn bản văn hóa dân tộc và hồn con người Việt Nam thì ca dao, tục ngữ là cẩm nang bí quyết, là một cuốn từ điển mà tiền nhân đã tích lũy theo thời gian và để lại cho con cháu. Trong đó hàm chứa triết lý dân tộc, phản ánh tâm thức Việt Nam và được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Nó là một thành tố quan trọng, góp phần tạo nên hệ giá trị tinh thần, bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc ta. Thế nhưng, hiện nay văn học dân gian là nguồn tư liệu ít được khai thác, tiếp cận về mặt triết học vì có ý kiến cho rằng đây là loại văn phong không uyên bác, lạc hậu và có nhiều hạn chế. Tuy nhiên, nếu chúng ta dày công sưu tập và nghiên cứu thì từ kho tàng văn học dân gian ấy có thể khám phá ra khí phách con người Việt Nam, khám phá ra những đặc điểm về tâm – sinh lý, tình cảm, cũng như quan niệm về thế giới, về con người của người Việt Nam. Đồng thời nó còn thể hiện năng lực tư duy, phán đoán, phân tích và nhận thức của cha ông ta về vũ trụ và con người. Vậy nên, muốn tìm hiểu hồn dân tộc Việt Nam, chúng ta không thể bỏ qua kho tàng này, qua đó chứng tỏ cha ông ta đã có một khối hiểu biết, kinh nghiệm và luân lý sâu sắc. Nhờ vậy mà đất nước và dân tộc ta sống còn và sống mạnh cho đến hôm nay sau những chiến tranh, xâm lược từ bên ngoài và phân tranh, chia rẽ ngay trong nội bộ. Mặt khác, Nghị quyết của Bộ Chính trị – Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam Về chính sách khoa học và kỹ thuật cũng đã chỉ rõ: “Nghiên cứu lịch sử tư tưởng triết học của dân tộc và sự thắng lợi của tư tưởng triết học Mác – Lênin ở Việt Nam” là một việc làm hết sức cần thiết không chỉ có ý nghĩa trọng đại trong giai đoạn hiện nay mà còn có ý nghĩa lâu dài. Hiện nay, nền kinh tế thị trường và sự mở cửa, giao lưu đã đưa nước ta hội nhập mạnh mẽ vào nền văn minh nhân loại, làm thay đổi nhanh chóng 2 diện mạo và đời sống đất nước. Thực tiễn đó cũng đặt ra nhiều vấn đề liên quan đến đạo đức trong ngành giáo dục khi mà gần đây, tình trạng vi phạm đạo đức nhà giáo và bạo lực học đường ngày càng gia tăng và trở nên nghiêm trọng, vấn đề giáo dục đạo đức, giáo dục nhân cách hơn bao giờ hết trở thành mối quan tâm trước hết của toàn xã hội. Để phát huy hơn nữa sức mạnh của dân tộc, đồng thời khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hơn bao giờ hết lại càng đòi hỏi phải quan tâm hơn nữa đến những giá trị tinh thần, đó là truyền thống văn hóa của dân tộc, là nền văn học dân gian nói chung – kho tàng ca dao, tục ngữ nói riêng; đồng thời kết hợp hài hòa với tinh hoa văn hóa của nhân loại để tạo nên sự phát triển bền vững cho nền văn hóa nước nhà. Lịch sử là một dòng chảy liên tục, tiếp nối không ngừng. Xưa – nay và cả ngày mai, vốn có quan hệ chặt chẽ theo dòng thời gian. Lý luận và kinh nghiệm giáo dục có tính kế thừa và phát triển. Giữa sự phát triển xã hội và giáo dục cũng như giữa lý luận và thực tiễn của hoạt động giáo dục có mối quan hệ khăng khít với nhau. Nhìn lại quá khứ để mạnh tiến đến tương lai – đó là những lý do để tôi chọn đề tài: “Triết lý giáo dục trong ca dao, tục ngữ Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ khoa học triết học. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hiện nay ở nước ta có rất nhiều công trình nghiên cứu về ca dao, tục ngữ. Tuy nhiên, hầu hết các công trình nghiên cứu đều tập trung dưới góc độ văn học dân gian là chính, chưa có công trình nào chuyên đi sâu nghiên cứu về vấn đề triết lý giáo dục trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Cụ thể: – Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện văn học 1 (2001), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, 5 tập, Nhà xuất bản giáo dục. – Vũ Ngọc Phan (1995), “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”, Nhà xuất bản Văn học. 3 – Cao Huy Đỉnh (1974), “Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội. – Phúc Khánh (1961), Thử tìm hiểu những yếu tố tư tưởng triết học trong thần thoại Việt Nam, Nhà xuất bản Sự thật. – Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên, Võ Quang Nhơn (2000), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb Giáo dục. – Nguyễn Nghĩa Dân (2011), Đạo làm người trong tục ngữ ca dao Việt nam, Nhà xuất bản Thanh niên. – Nguyễn Nghĩa Dân (2001), Lòng yêu nước trong văn học dân gian Việt Nam, Nxb Hội nhà văn. – Phương Thu (2004), Ca dao, tục ngữ Việt Nam, Nxb Thanh Niên, Hà Nội. – Triều Nguyên (2005)”Ca dao Thừa Thiên – Huế”, Nhà xuất bản Hội liên hiệp văn học nghệ thuật Thừa Thiên – Huế, Huế. – Triều Nguyên (2010), “Khảo luận về tục ngữ Người Việt”, Nxb Khoa học xã hội. – Phạm Việt Long (2010), “Tục ngữ, ca dao về quan hệ gia đình”, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. – Nguyễn Tài Thư (1993), Lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. – Nguyễn Hữu Vui (2004), Lịch sử triết học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Những công trình nghiên cứu trên các tác giả đã đi sâu và làm sáng tỏ những vấn đề của ca dao, tục ngữ của Việt Nam như khái niệm, nguồn gốc, sự hình thành, phát triển, nội dung và các hình thức nghệ thuật nói chung của ca dao, tục ngữ. Làm rõ nội dung phản ánh của ca dao, tục ngữ như: ca dao, tục ngữ nói về thiên nhiên, về lao động sản xuất, về quan hệ gia đình, xã hội và về giáo dục, về đạo đức. Ca dao, tục ngữ thể hiện tình yêu quê hương đất 4 nước; thể hiện tình cảm đôi lứa, thể hiện về quan hệ hôn nhân – gia đình,… Ngoài ra, tác giả còn làm rõ mối quan hệ giữa ca dao, tục ngữ với các thể loại văn học dân gian khác. – Một số luận văn đã nghiên cứu liên quan đến đề tài này là: Lương Thị Lan Huệ (2004), “Một số vấn đề triết học qua ca dao, tục ngữ Việt Nam”. Tác giả đã trình bày một số tư tưởng triết học trong ca dao, tục ngữ người Việt như: Tư tưởng triết học biểu hiện qua mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên và mối quan hệ giữa con người đối với xã hội. Tác giả cũng đã rút ra một số nhận xét về ca dao, tục ngữ Việt Nam, nêu ý nghĩa triết học của ca dao, tục ngữ trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay. Phạm Thị Thúy Hằng (2006), “Những tư tưởng triết học trong truyện kể dân gian Việt Nam”. Tác giả cũng đã trình bày một số tư tưởng triết học về thế giới quan, nhân sinh quan của con người Việt Nam. Đề cập đến những ảnh hưởng của truyện kể dân gian đối với việc xây dựng nền văn hóa của dân tộc. Cao Thị Hoa (2011), “Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên – Huế”. Tác giả đã đi sâu phân tích và làm sáng tỏ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên – Huế, trên cơ sở đó rút ra ý nghĩa thực tiễn về quan niệm sống (nhân sinh quan, thế giới quan) của con người Việt Nam ở tỉnh Thừa Thiên – Huế, vận dụng nó ở góc độ kế thừa, giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. – Một số bài viết đăng trên các tạp chí triết học như: Lê Huy Thực (2004 – 2005), “Triết lý dân gian về hạnh phúc trong tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam”, Tạp chí triết học số 2 (153); “Tiêu chí kiểm định đạo đức con người qua tục ngữ thơ ca dân gian”, Tạp chí triết học số 9 (172). Đỗ Lan Hiền (2005), “Những nét độc đáo trong tư duy người Việt qua văn học dân gian”, Tạp chí triết học số 6 (169). 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 5 * Mục đích: Mục đích của đề tài là làm sáng tỏ triết lý giáo dục trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Trên cơ sở đó vận dụng vào việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho con người Việt Nam. Kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa của dân tộc trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. * Nhiệm vụ: Để đạt được mục đích đã nêu trên, đề tài làm rõ: – Quá trình hình thành của ca dao, tục ngữ Việt Nam. – Những nội dung triết lý giáo dục thể hiện trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là ca dao, tục ngữ Việt Nam qua các công trình đã được xuất bản. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của đề tài là những quan điểm, phương pháp luận của triết học Mác – Lênin. Đó là sự kết hợp những nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử với nguyên tắc thống nhất giữa lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống kê, so sánh và đối chiếu, khách quan và biện chứng trong việc nghiên cứu tư tưởng triết học. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn đã trình bày một cách có hệ thống về vấn đề triết lý giáo dục trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Làm rõ những vấn đề về giá trị giáo dục, giá trị nhân sinh được thể hiện trong ca dao, tục ngữ của dân tộc. Luận văn hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và môn giáo dục công dân ở các trường trung học phổ thông. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có 2 chương, 5 tiết. 6 CHƯƠNG 1 VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CA DAO TỤC NGỮ VÀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC TRONG CA DAO TỤC NGỮ VIỆT NAM 1.1. Vấn đề chung về ca dao, tục ngữ Việt Nam 1.1.1. Khái niệm ca dao, tục ngữ Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, tục ngữ, ca dao luôn giữ một vị trí hết sức quan trọng, được coi là nền văn học khởi nguồn. Đó là những viên ngọc quý, những kinh nghiệm, những điều hay, lẽ phải mà ông cha ta để lại. Là tâm hồn, trí tuệ, tình cảm và đời sống tinh thần của nhân dân ở từng chặng đường lịch sử. Là kết quả lao động sáng tạo, thể hiện những triết lý sâu sắc được đúc rút từ thực tiễn cuộc sống của người dân lao động. Do đặc điểm nội dung và hình thức ngắn gọn, tinh tế, có vần và dễ nhớ nên ca dao, tục ngữ luôn luôn được nhân dân vận dụng, giữ gìn và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Mặc dù luôn được trau chuốt, có những thay đổi nhất định nào đó về ngôn từ khi đến “cư trú” ở các địa phương khác nhau nhưng ca dao, tục ngữ vẫn luôn giữ được cái hồn, cái hình của mình. Ca dao, tục ngữ vừa là một hiện tượng ngôn ngữ, vừa là một hiện tượng thuộc về ý thức xã hội, phản ánh cuộc sống sinh hoạt muôn hình muôn vẻ của nhân dân, biểu hiện những nhận xét, những ý nghĩ của nhân dân trong cuộc đấu tranh với các hiện tượng thiên nhiên bất lợi hoặc trong đấu tranh xã hội và xây dựng đất nước, từ đó kết tinh thành truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. 1.1.1.1. Ca dao Theo định nghĩa của từ điển Tiếng Việt thì ca dao là một thuật ngữ Hán Việt. Theo từ nguyên, ca là bài hát có chương khúc, giai điệu; giao là bài hát ngắn, không có giai điệu, chương khúc. Cho nên, ca dao là lời của các bài hát 7 dân ca đã được tách những tiếng đệm, tiếng láy… hoặc ngược lại, là những câu thơ có thể “bẻ” thành những làn điệu dân ca. Theo từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 1, thì “ca dao thường là những câu thơ, bài hát dân gian có ý nghĩa khái quát, phản ánh đời sống, phong tục, đạo đức hoặc mang tính chất trữ tình, đặc biệt là tình yêu nam nữ” [43, tr.303]. Ca dao là những bài hát ngắn, thường là 3, 4 câu. Cũng có một số ít bài ca dao dài. Những bài ca dao xưa thường có nguồn gốc dân ca. Dân ca, tước bỏ làn điệu đi, lời ca ở lại, đi vào kho tàng ca dao. Trong quá trình sáng tác của thơ ca dân gian, khái niệm ca dao được dùng để chỉ bộ phận cốt lõi, tiêu biểu, đó là bộ phận những câu hát đã trở nên phổ biến và được truyền tụng rộng rãi trong nhân dân. Ca dao đã trở thành một thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân gian, do đó tất cả những sáng tác thơ ca nào mang phong cách của những câu hát cổ truyền, người ta gọi là ca dao. Như vậy, ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian. Những tác phẩm trong thể loại này dù nói lên mối quan hệ giữa con người trong lao động, trong sinh hoạt gia đình và xã hội, hoặc nói lên những kinh nghiệm sống và hành động thì bao giờ cũng bộc lộ thái độ chủ quan chứ không phải miêu tả một cách khách quan những hiện tượng, những vấn đề. Cho nên trong ca dao, cái tôi trữ tình nổi lên một cách rõ nét. Cũng như các thể loại văn học dân gian khác, ca dao phản ánh mọi mặt cuộc sống của người dân Việt Nam qua quá trình lịch sử. Đó là một bức tranh sinh động, phong phú, đầy màu sắc Việt Nam. Thể hiện một cách sâu sắc, rực rỡ thế giới quan, nhân sinh quan của con người Việt Nam. Đó là những quan niệm về trời, đất, về nguồn gốc con người. Đó là tinh thần lạc quan trong khó khăn, tinh thần tương thân tương ái giữa những con người lương thiện, đó còn là nhận thức sâu sắc về bạn, về thù, về chính nghĩa. Tóm lại, qua ca dao có thể thấy rõ hiện thực cuộc sống của 8 nhân dân, cái hiện thực vốn có được hiện lên một cách chân thực nhất. Nội dung của ca dao rất phong phú, đa dạng. Phản ánh những quan niệm về trời, đất, về thời thế, nguồn gốc con người; phản ánh lịch sử, công cuộc đấu tranh chống thiên nhiên, chống áp bức bóc lột và xâm lược. Miêu tả khá chi tiết phong tục tập quán, những kinh nghiệm trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của người dân lao động, những kinh nghiệm trong sản xuất, chăn nuôi, gieo trồng mùa vụ, trong đời sống riêng tư, đời sống gia đình và đời sống xã hội. Qua đó thấy được đức tính cần cù, chịu đựng gian khổ, khó khăn và những phẩm chất tốt đẹp của người dân trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên, với xã hội để sinh tồn và vươn lên giành lấy hạnh phúc. Nét nổi bật trong bộ phận ca dao lịch sử là nội dung của nó đã thể hiện một cách mạnh mẽ, sâu sắc tình cảm của nhân dân đối với quê hương, đất nước, với nòi giống, tổ tiên: “Thương chi đồng nỗi thương con/ Nhớ chi đồng nhớ nước non quê nhà”; “Con người có tổ có tông/ Như cây có cội, như sông có nguồn”. Hay những câu ca dao phản ánh những sự kiện của lịch sử dân tộc, nói lên thái độ, quan điểm, lòng yêu nước của nhân dân ta trong khi bà Triệu khởi nghĩa chống quân Ngô xâm lược: “Ru con, con ngủ cho lành/ Để mẹ gánh nước rửa bành cho voi/ Muốn coi lên núi mà coi/ Coi bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng/ Túi gấm cho lẫn túi hồng/ Têm trầu cánh kiến cho chồng đi quân”. Ca dao còn là tiếng nói của trái tim, bày tỏ sự uất ức, phẫn nộ của nhân dân, là tiếng hát đấu tranh chống áp bức của chế độ phong kiến, cường quyền, chống quân xâm lược, vạch trần những cái xấu, những tội ác mà chế độ phong kiến đế quốc gây ra cho nhân dân ta. Hình ảnh nổi bật trong những câu ca dao nói về đất nước, quê hương, dân tộc,…là những hình ảnh về con người Việt Nam cần cù trong lao động, 9 dũng cảm trong đấu tranh, nhân ái, vị tha, giàu đức hy sinh trong quan hệ giữa người với người và luôn luôn lạc quan, yêu đời. Ca dao thể hiện những phẩm chất tốt đẹp đó của người Việt Nam và hướng con người vươn tới cái chân, thiện, mỹ trong cuộc sống: “Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng”; “Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”. Tình yêu quê hương, đất nước, cảm hứng về một non sông tươi đẹp, về một nòi giống vẻ vang, về một dân tộc anh hùng,… là một cảm hứng vừa nồng nàn, vừa đằm thắm, lắng sâu. Nhiều tên núi, tên sông, tên các làng quê, các di tích lịch sử – văn hóa, các sản vật, các cảnh sinh hoạt cùng phong tục tập quán ở các địa phương được thể hiện rất phong phú trong ca dao. Ca dao còn là tiếng hát nghĩa tình, tiếng hát yêu thương của con người. Phong phú và đặc sắc nhất, giàu cung bậc nhất trong tình cảm của con người là mảng ca dao giành cho tình yêu đôi lứa. Những tâm tình, những khía cạnh của tình yêu và trạng thái tâm lý của trai gái lúc yêu nhau, được ca dao diễn đạt bằng một ngôn ngữ vừa giản dị, vừa bay bổng, vừa ý nhị, vừa đậm đà, chứ không mang màu sắc ủy mị, sướt mướt, trái lại nó rất rắn rỏi, bền chặt, trong sáng mặc dù trong cuộc sống, trong hôn nhân có không ít trắc trở, khổ đau: “Thuyền về có nhớ bến chăng?/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền!”. Nội dung của ca dao đã phản ánh được mọi biểu hiện sắc thái, cung bậc của tình yêu, thể hiện quan niệm tự do trong yêu đương, tự do hôn nhân. Những tình cảm thắm thiết trong hoàn cảnh may mắn hạnh phúc với những niềm mơ ước, những nỗi nhớ nhung da diết hoặc cảm xúc nảy sinh từ những rủi ro ngang trái, thất bại, khổ đau với những lời than thở oán trách, tình yêu cho con người thêm mạnh mẽ trong cuộc sống, trong lao động, trong đấu tranh để bảo vệ tình yêu, hạnh phúc của mình. Ca dao trữ tình về tình yêu nam nữ đã kết hợp chặt chẽ chủ đề tình yêu 10 . VỀ CA DAO TỤC NGỮ VÀ TRIẾT LÝ GIÁO DỤC TRONG CA DAO TỤC NGỮ VIỆT NAM 1.1. Vấn đề chung về ca dao, tục ngữ Việt Nam 1.1.1. Khái niệm ca dao, tục ngữ Trong. làm sáng tỏ triết lý giáo dục trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Trên cơ sở đó vận dụng vào việc giáo dục đạo đức, nhân cách cho con người Việt Nam. Kế thừa
Sưu Tầm Những Câu Ca Dao, Tục Ngữ Về Hà Nội Hay
Mô tả: Ngân nga những câu ca dao, tục ngữ về Hà Nội hay làm cho ta có cảm giác xao xuyến đến nao lòng. Nét đẹp và tâm hồn người Hà Nội được gột tả qua từng vần thơ, ôi nghe sao mà dễ chịu.
Lời đầu
Nhắc đến Hà Nội, ta thường nghĩ ngay đến những câu ca dao, tục ngữ về Hà Nội tạo nên nét rất riêng của mảnh đất nghìn năm văn hiến. Hà Nội mang trong mình một nét kiêu sa, thanh lịch mà cũng rất gần gũi, giản dị, mang đậm hương vị quê nhà cũng như bản sắc dân tộc. Ta có thể cảm nhận ngay nét đẹp Hà Nội từ phong cảnh, sản vật, văn hóa cho đến con người. Ta dễ dàng bắt gặp Hà Nội trong trong những câu ca dao dân ca. Qua những câu từ, Hà Nội hiện hữu như một minh chứng cho một sức sống trường tồn theo thời gian của văn hóa Việt nam.
Cảm nhận về vẻ đẹp qua ca dao tục ngữ về Hà Nội
Ca dao, tục ngữ về Hà Nội được ra đời từ rất sớm, ngay từ trước khi mà cso cái tên Hà Nội thì nó đã được sáng tác và tồn tại cho đến tại thời điểm này. Ca dao nơi đây đã hấp dẫn và làm dấy lên những làn sóng ca dao tại nhiều vùng. Qua những lời thơ, ca dao người nghe có thể cảm nhận được những nét đẹp, những đặc trưng của đất và người Hà Nội luôn toả sáng cùng thời gian và trên khắp mọi miền đất nước.
Nói đến Hà Nội xưa, người ta thường dễ hình dung ra một đô thị mang tính chất phong kiến. Hình ảnh phía trong là Hoàng thành, phía ngoài là các phường phố, các trại. Ở thời điểm này, Hà Nội được biết đến gồm 2 khu vực: khu vực đô thị nội thành và các làng xã, các huyện ngoại thành. Một phần ảnh hưởng từ điều này dẫn đến số lượng các nghề sản xuất khác nhau và trình độ lao động khá nổi tiếng của người dân nơi đây: “Khéo tay hay nghề, đất là Kẻ Chợ”. Mỗi khi đề cập đến hai tiếng Kẻ Chợ, người xưa thường mường tượng đến Hà Nội.
Không những thế, những câu ca dao, tục ngữ Hà Nội luôn gợi cho ta về bức tranh thủ đô ngàn năm thắm đượm lối sống, tính cách, tâm hồn dân tộc, mang đậm bản sắc văn hóa của người Việt Nam.
Hà Nội là chốn hội tụ tinh hoa đất nước, không chỉ hội tụ, mảnh đất trái tim Tổ quốc này còn sàng lọc, kết tinh hương hoa trăm miền để tạo nên bản sắc thanh lịch tiêu biểu cho mình, cho dân tộc mình, để rồi lại tỏa sáng ra trăm miền đất nước. Hình ảnh thanh lịch đã trở thành truyền thống của người Hà Nội, một vầng sáng của tâm thức Việt Nam.
Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ.
Thăng Long Hà Nội đô thành
Cố đô rồi lại tân đô
Nghìn năm văn vật bây giờ vẫn đây.
Ba mươi sáu phố rành rành chẳng sai.
Rủ nhau chơi khắp Long thành
Hàng Bồ, Hàng Bạc, Hàng Gai
Hàng Buồm, Hàng Thiếc, Hàng Bài, Hàng Khay
Mã Vĩ, Hàng Điếu, Hàng Giày
Hàng Lờ, Hàng Cót, Hàng Mây, Hàng Đàn
Phố Mới, Phúc Kiến, Hàng Than
Hàng Mã, Hàng Mắm, Hàng Than, Hàng Đồng
Hàng Muối, Hàng Nón, Cầu Đông
Hàng Hòm, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Bè
Hàng Thùng, Hàng Bát, Hàng Tre
Hàng Vôi, Hàng Giấy, Hàng The, Hàng Gà
Quanh đi đến phố Hàng Da
Trải xem phường phố thật là cũng xinh
Phồn hoa thứ nhất Long Thành
Phố giăng mắc cửi, đường quanh bàn cờ
Người về nhớ cảnh ngẩn ngơ
Bút hoa xin chép nên thơ lưu truyền.
Ấy nơi liệt sĩ anh hùng giáng sinh.
Sông Tô một dải lượn vòng
Sông Hồng một khúc uốn quanh
Văn nhân tài tử lừng danh trong ngoài.
Buồm giong ba ngọn vui đà nên vui.
Ai về Hà Nội, ngược nước Hồng Hà
Đường về xứ Lạng mù xa…
Có về Hà Nội với ta thì về
Hàng Gai, hàng Đường, hàng Muối trắng tinh.
Hà Nội ba mươi sáu phố phường
Từ ngày ta phải lòng mình
Bác mẹ đi rình đã mấy mươi phen.
Làm quen chẳng được nên quen
Làm bạn mất bạn ai đền công cho
Nước Hồ Tây biết bao giờ cạn
Trên trời có một ông sao
Nhị vườn đào biết vạn nào hoa
Đưa nhau một quãng đường xa
Hỏi thăm anh Tú có nhà Cửa Nam
Em ghé thuyền đỗ sát thuyền anh.
Dừng chèo muốn tỏ tâm tình
Nước sông Tô vừa trong vừa mát
Sông bao nhiêu nước thương mình bấy nhiêu.
Tiếng chuông Trấn Vũ, canh gà Thọ Xương
Mịt mù khói tỏa màn sương
Gió đưa cành trúc la đà
Nhịp chày Yên Thái, mặt gương Tây Hồ.
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn.
Đài Nghiên, Tháp Bút chưa mòn
Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ
Hỏi ai gây dựng nên non nước này. –
Cầu Đông sương sớm, quán Giò trăng khuya…
Sông Tô nước chảy quanh co
Có về Kẻ Bưởi với anh thì về
Làng anh có ruộng tứ bề
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Có hồ tắm mát, có nghề quay tơ.
Sông có Nhị Hà, núi có Tản Viên
Thề kia nỡ để lỡ duyên
Gương kia lỡ để bụi nhòa
Trăng còn soi mãi vùng sen Tây Hồ
Hỡi trăng Tô Lịch, hỡi mây Tây Hồ.
Mình đi có nhớ kinh đô
Biết nhà cô ở đâu đây,
Nhớ trăng Tô Lịch, nhớ hồ Gươm trong.
Có sông Tô Lịch uốn quanh xóm làng
Bên bờ vải nhãn hai hàng
Làng tôi có lũy tre xanh
Dưới sông cá lội từng đàn tung tăng.
Có về Hà Nội với ta thì về
Đường thủy thì tiện thuyền bè
Đường về xứ bắc xa xa
Đường bộ cứ bến Bồ Đề mà sang
Có gò Ngũ Nhạc, có con sông Hồng
Thanh Trì cảnh đẹp người đông
Thanh Trì có bánh cuốn ngon
Có cây sáo trúc bên đồng lúa xanh.
Hỏi thăm chú lái
Vải Quang, húng Láng, ngổ Đầm
thuyền chồng tôi đâu
Chồng em còn ở sông Dâu
Chiều chiều ra đứng ghềnh sông
Buôn chè mạn hảo tháng sau mới về
Kìa ba bốn chiếc thuyền kê
Chiếc về Hà Nội, chiếc về Vạn Vân
Vạn Vân có bến Thổ Hà
Xa nhau chỉ mất, cho già mất duyên.
Có về Kẻ Bưởi với anh thì về
Làng anh có ruộng tứ bề
Có hồ tắm mát, có nghề quay tơ.
Hỡi cô thắt lưng bao xanh
Dọc ngang thước rưỡi móc khâu năm đường.
Nón này chính ở làng Chuông
Làng Già lợp nón, Khương Thường bán khuôn.
Nón này em sắm chợ Giần
Hà Nội thì kết quai tua
Có hai con bướm đậu vừa xung quanh.
Nhất lịch, nhất sắc kinh kỳ Thăng Long.
Thăng Long đẹp đất, đẹp người ngàn năm.
Nhất cao là núi Ba Vì
Kết
Đến đây hẳn bạn đã phần nào cảm nhận được những nét đẹp của Hà Nội thông qua những câu ca dao, tục ngữ hay về Hà Nội. Với những ai có tâm hồn yêu thơ văn, chắc chắn rằng sẽ cảm nhận được đây là mảnh đất nuôi dưỡng tâm hồn ta lớn lên cùng đất nước.
Đền Đô kiến trúc tuyệt vời
Bạn đang xem bài viết Sưu Tầm, Vận Dụng Ca Dao, Tục Ngữ Vào Giảng Dạy Phần Triết Học Trong Môn Giáo Dục Công Dân trên website Boxxyno.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!