Cập nhật thông tin chi tiết về Rồng Trong Ngôn Ngữ Và Văn Học Dân Gian Việt Nam mới nhất trên website Boxxyno.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Trong thực tế đời sống, từ săn bắt hái lượm đến định cư nông nghiệp, dân Việt cổ thường gặp phải những tai nạn ở sông biển, mà họ cho là do thủy quái, một loài động vật ở nước gây ra. Chính vì thế mà họ đã vẽ mình, xăm trên thân hình những dạng hình ngoằn ngoèo (truyền thuyết kể là từ đời Hùng Vương) và mãi đến đời Trần mới bãi bỏ.
Chính cái truyền thuyết về Con Rồng Cháu Tiên là một thứ truyền thuyết Việt cổ đã bị khúc xạ bởi yếu tố văn hóa ngoại nhập, văn hóa Hán tộc.
Suốt quá trình bị đô hộ và sau đó là giao lưu văn hóa với Trung Hoa, khái niệm rồng của Trung Hoa mới du nhập Việt Nam. Từ đó, người Việt mới có khái niệm rồng như là một con vật linh thiêng, trong hệ thống tứ linh: long, lân, quy, phụng. Và từ đó, trong ngôn ngữ, từ long hay rồng mới gắn với cương vị đế vương, vua chúa, hay những thực thể cao quý. Như một loạt từ sau đây:
Long thể: thân thể vua Long nhan: mặt vua Long sàng: giường vua Long ngai: ngai vua Long cổn, long bào: áo vua Long châu, long thuyền: thuyền vua…
Và hình ảnh tưởng tượng của rồng cũng đã chi phối cách mô tả ngoại hình các bậc vua chúa của nhà văn: râu rồng, mũi rồng, đi nhẹ như nước, ngồi vững như non v.v…
Đó là trong ngôn ngữ và văn chương bác học. Còn trong ngôn ngữ và văn học dân gian, từ rồng, hình tượng rồng được dùng mở rộng hơn. Và tất nhiên là không mấy hệ thống. Nên đề cập về hình tượng rồng, từ rồng trong ngôn ngữ và văn học dân gian là một câu chuyện tản mạn, có tính chất phiếm luận.
Có thể thấy dân gian quan niệm về rồng tản mạn như sau:
1. Cá gáy hóa rồng:
Quan niệm này cũng tiếp thu từ Trung Hoa. Ca dao ta nói:
Mồng bốn cá đi ăn thề. Mồng tám cá về cá vượt Vũ môn.
Vũ môn, tức cửa Vũ gồm có ba tầng. Ở Trung Quốc và ở Việt Nam ta đều có địa điểm này. Đó là nơi mà người xưa tưởng là cá trải qua cuộc thi khảo sát về trình độ và năng lực. Nếu vượt qua ba cấp Vũ môn thì sẽ hóa rồng(!)
Từ khái niệm cụ thể đó, thành ngữ “cá hóa rồng” thường dùng để chỉ việc thi cử thành đạt của sĩ tử ngày xưa. Dân gian đã từng nuôi ước mơ:
Biết bao giờ cá gáy hóa rồng, Đền công ơn thầy mẹ ẵm bồng ngày xưa
Khái niệm này cũng được mở rộng, dùng để chỉ cho việc người con gái lấy được người chồng xứng đáng:
Phận gái lấy được chồng khôn, Xem bằng cá vượt Vũ môn hóa rồng.
2. Rồng nở từ trứng và ở hang.
Nhưng trong dân gian cũng có một quan niệm khác: rồng cũng sinh sản như rắn:
– Trứng rồng thì nở ra rồng Liu điu thì nở ra dòng liu điu. Hay: Trứng rồng thì nở ra rồng, Hạt thông thì nẩy cây thông rườm rà.
Và rồng cũng ở hang:
– Lấy chồng thì phải theo chồng, Chồng đi hang rắn, hang rồng, cũng đi.
Quan niệm này hẳn có màu sắc bản địa hơn quan niệm trên kia.
3. Trong ngôn ngữ và văn học dân gian, rồng là một yếu tố ví von, so sánh để biểu đạt một số mặt sinh hoạt của con người, như ăn, nói, viết, giao tế, thời vận, tình yêu, nhận định về con người và cuộc sống.
Trước hết về chuyện ăn. Chỉ có một thành ngữ: “ăn như rồng cuốn”. Rồng cuốn tức là rồng hút, chỉ hiện tượng vòi rồng trong tự nhiên, như cách chiêm nghiệm thời tiết:
Rồng đen uống nước thì nắng, Rồng trắng uống nước thì mưa.
Về chữ viết, người văn hay chữ tốt thường được ca ngợi “như rồng bay phượng múa”.
Ngay cả lời nói: “nói như rồng” là nói thao thao bất tuyệt:
Trong lưng chẳng có một đồng, Lời nói như rồng chúng chẳng thèm nghe.
Nhưng coi chừng, bao giờ cũng cần nói đúng thực chất, nói phù hợp với kiến thức mà mình tiêu hóa, nếu không dễ trở thành khập khiễng: “nói những lời như rồng như rắn”. Thêm yếu tố rắn làm chuyển đổi giá trị tức khắc:
Học chẳng biết chữ cua, chữ còng, Nói những lời như rồng, như rắn!
Trên phương diện giao tế, dân gian dùng thành ngữ: “rồng đến nhà tôm” để vừa tỏ sự tự khiêm, nhún nhường của gia chủ, vừa ca ngợi người khách quý. Nhưng có khi, đó cũng là cách mai mỉa:
Mấy đời rồng đến nhà tôm. Tôi đến nhà chị không môn thì bầu.
Âu cũng là một lối giao tế thực dụng. Và quen thuộc nhất là rồng chỉ thời vận. Hanh thông như là “rồng gặp mây”. Thường chỉ người thành đạt khoa cử:
“Như cá gặp nước, như rồng gặp mây”
Nhưng mất yếu tố thời vận thì chỉ là “rồng nằm ở cạn”, không còn vùng vẫy, múa may gì được, mà chỉ còn trơ hình hài:
Rồng nằm bể cạn giơ râu, Mấy lời anh nói giấu đầu hở đuôi. Hay đau khổ hơn là:
Rồng vàng tắm nước ao tù, Người khôn ở với đứa ngu bực mình.
Đó cũng là cái tình thế bất như ý:
Khốn nạn thay, nhạn ở với ruồi, Tiên ở với cú, người cười với ma Con công ăn lẫn với gà, Rồng kia rắn nọ, coi đà sao nên.
Dễ thường mấy khi rồng mây được dùng để chỉ lứa đôi, vì những hình tượng khác quyến rũ hơn, như: mận – đào, loan – phượng, yến -oanh, gió – trăng v.v… nhưng điều đó cũng có:
Mấy khi rồng gặp mây đây, Để rồng than thở với mây vài lời. Nữa mai rồng ngược mây xuôi, Biết bao giờ lại nối lời rồng mây.
Như thế, “lời rồng mây” cũng là lời hẹn thề, lời chung thủy, lời nước non.
Họa hoằn lắm, rồng được dùng như là một biểu tượng của ngăn trở, của cách chia:
Ngồi buồn gởi bức thư sang, Có con rồng bạch chắn ngang giữa trời Vậy nên thơ chẳng tới nơi, Trông thơ, ai biết những lời làm sao.
Ở trên, đã nhắc đến những kết hợp rồng – phượng, rồng – rắn. Ngoài ra, còn có kết hợp rồng – hổ, theo dạng thức đối lập, trong cách ví von nhẹ nhàng mà không kém sâu sắc và mai mỉa, đồng thời lại là chơi chữ:
Xấu hổ nhưng mà tốt long Đến khi no lòng, tốt cả long lẫn hổ.
Trong nghệ thuật dân gian và cung đình Việt Nam cũng như Trung Hoa, rồng là hình tượng trang trí quen thuộc trên lâu đài đình tạ am miếu, như những mô típ: lưỡng long tranh châu, lưỡng long triều nguyệt, long hý châu, long lộng vũ, long ẩn, và đặc biệt là các điệu hóa cả chiếc thuyền vua, long thuyền tức thuyền rồng. Đến nỗi có người con gái nghèo mơ ước:
Vốn tôi chỉ có ba đồng, Nửa để nuôi chồng, nửa để nuôi tôi. Còn thừa mua cái bình vôi, Mua xanh, mua chảo, mua nồi nấu ăn. Còn thừa mua nhiễu vấn khăn, Mua dăm vuông vóc may chăn cho chàng. Còn thừa mua chiếc thuyền rồng, Đem ra cửa bể cho chàng thả chơi…
Cũng là lời nói ngoa cho đỡ day dứt cảnh nghèo, chứ dân giả ai mà chẳng biết:
Tay chèo cất mái hò khoan Thuyền rồng chúa ngự, khoan khoan mái chèo.
Một kiểu nói khác bày tỏ sự ước ao sang cả, biểu hiện một tâm lý hưởng thụ, để trở thành phản bội: Một ngày dựa mạn thuyền rồng, Còn hơn chín tháng nằm trong thuyền chài.
Cách nói ấy tất nhiên bị phủ định bằng một suy nghĩ chín chắn hơn, xác thật hơn:
Chớ tham ngồi mũi thuyền rồng, Tuy rằng tốt đẹp, nhưng chồng người ta.
Và quả thật, dân gian đã xét đoán đúng giá trị con người, nhìn đúng thực chất con người, không lệ thuộc những thứ trang sức phù hoa, những thứ trang hoàng sang trọng:
Dù ngồi cửa sổ chạm rồng Chăn loan gối phượng, không chồng cũng hư
Nhưng sâu sắc và không kém chua chát là lời cảm thán sau đây:
Khen ai khéo dựng bình phong, Bên ngoài long phượng, trong lòng gạch vôi!
Trong một cách nói ngoa ngữ, cường điệu, một chi tiết thiếu bình thường trên gương mặt người con gái cũng có thể bị châm biếm một cách dí dỏm:
Lỗ mũi em mười tám gánh lông, Chồng thương chồng bảo râu rồng trời cho.
Đúng là người lớn lắm chuyện. Hãy trở về với thế giới trẻ em. Trong tâm tưởng hồn nhiên, ngây thơ của trẻ em qua đồng dao, rồng đã là một biểu tượng của hạnh phúc, của ấm no, giàu có như lời chúc tụng của trẻ em ngày xưa đối với gia chủ trong những ngày tết nguyên đán:
Súc sắc súc sẻ, Nhà nào còn đèn còn lửa, Mở cửa cho anh em chúng tôi vào, Bước lên giường cao, thấy đôi rồng ấp. Bước xuống giường thấp, thấy đôi rồng chầu. Ông sống một trăm, thêm năm tuổi lẻ…
Đó cũng là lời chúc tất cả bạn đọc trước thềm năm mới.
T.Đ (SH29/02-88)
Www.honviet.com. Nghĩ Về Vẻ Đẹp Con Rồng Trong Văn Học Dân Gian
Có lẽ do rồng là sản phẩm của trí tưởng tượng, không gần gũi với con người như trâu, chó, lợn, gà…, nên trong văn học dân gian (thành ngữ, tục ngữ và ca dao xưa) hình ảnh con rồng không nhiều. Vì rồng là hình ảnh thể hiện ước vọng một cuộc sống cao sang đẹp đẽ của con người, nên cũng ít câu đề cập cảnh đời lầm than hay oan khuất, khiến ta phải trầm ngâm suy nghĩ hoặc “đau đầu” ăn năn.
Người ta thường tưởng tượng rồng bay giữa trời, nên trước hết, hình ảnh “vòi rồng” trong cơn lốc xoáy được xem là một dấu hiệu dự báo thời tiết: “Rồng đen lấy nước thời nắng/ Rồng trắng lấy nước thời mưa”.
Và cơn mưa hiếm hoi giữa mùa hạ thì đúng là “Mưa tháng sáu máu rồng”.
Trong việc bình phẩm sự đời, muốn tụng khen, nịnh nọt ai, dù chỉ là một cử chỉ bề ngoài hay nết ăn, kiểu mặc, người ta cũng đem rồng ra “đối chứng”: nào là “Ăn như rồng cuốn”, áo quần thì “Thêu phượng vẽ rồng”, học hành thì chữ viết “Như phượng múa rồng bay”, cả đến mộ phần của họ cũng “hoành tráng” hơn thiên hạ: “Mả táng hàm rồng”!
Rồng được phác họa vào thời nhà Lý
Nhưng “lưỡi không xương, nhiều đường lắt léo”, có khi những sự ví von này lại hàm ý chê bai những kẻ ưa “phách lối”, thích tô vẽ để lòe thiên hạ, nhất là lúc nó được “biểu diễn” với giọng giễu nhại.
Loại người phét lác, không có thực lực ấy thì “lời rồng” cũng chẳng cứu được: “Trong lưng chẳng có một đồng/ Lời nói như rồng, chúng chẳng thèm nghe”.
Tuy vậy, hình ảnh chủ đạo “khoác áo” rồng vẫn là điều tốt đẹp. Ví như khi bạn quý đến nhà, câu cửa miệng là “Rồng đến nhà tôm”, nói chuyện may rủi thì “May hóa long, không may xong máu”.
Hình ảnh con rồng được dùng nhiều hơn cả trong những câu nói về tình bạn, tình yêu đôi lứa. Có được người tình “lý tưởng”, người bạn tri âm thì bảo là “Như rồng gặp mây”. Diễn tả đôi lứa xa cách được gặp lại thì tha thiết và ngậm ngùi: “Mấy khi rồng gặp mây đây/ Để rồng than thở với mây vài lời/ Nữa mai rồng ngược mây xuôi/ Biết bao giờ lại nối lời nước non!”.
“Rồng” bay lượn trên… trời nên luôn quấn quýt với “mây”, nhưng cũng như ở trần thế, vẫn có những anh chồng không may: “Khi đầu em nói em thương/ Bây giờ gánh nặng giữa đường đứt dây/ Tưởng là rồng ấp lấy mây/ Ai ngờ rồng ấp lấy cây bạch đàn!”.
Múa rồng trong tranh Đông Hồ
Và cho dù con rồng là biểu tượng cao quý, nhưng tình nghĩa, tình yêu thủy chung còn quý hơn: “Trăm năm ghi tạc chữ đồng/ Dù ai thêu phượng vẽ rồng mặc ai” và: “Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng/ Chăn loan gối phượng không chồng cũng hư”.
Vậy nên: “Gái có chồng như rồng có vây/ Gái không chồng như cối xay chết ngõng” và: “Làm gái lấy được chồng khôn/ Cầm bằng cá vượt Vũ Môn hóa rồng”.
Hình ảnh người chồng thành đạt – ngày xưa là các sĩ tử đậu cao, được bổ làm quan – thường được gắn với những vật dụng như cái võng, chiếc thuyền có khắc chạm con rồng: “Chồng sang đi võng đầu rồng/ Chồng hèn gánh nặng đè còng cả lưng” và: “Trai ơn vua ngồi võng đòn rồng/ Gái ơn chồng ngồi võng ru con” hoặc là: “Trai ơn vua lúc đua thuyền rồng/ Gái ơn chồng lúc bồng con thơ”.
Rồng trong nghệ thuật phong thủy
Những lời người xưa đúc kết thường là chí lý. “Một người làm quan, cả họ được nhờ” mà! Nhưng không phải ông chồng nào được “võng đầu rồng”, “thuyền rồng” đón đưa cũng có cuộc sống hạnh phúc, có niềm vui sướng như người phụ nữ “ngồi võng ru con”, nhất là khi dân tộc mất độc lập, vua hay quan đều là bù nhìn, hoặc phải làm quan dưới triều vua hư đốn, bạc nhược, người có lương tâm thì dù lắm ruộng nhiều vàng, trong lòng vẫn luôn đau khổ; thậm chí có vị đã phải nổi loạn chống triều đình, bất chấp sẽ bị tù tội.
Tiêu biểu cho loại người này là Cao Bá Quát (1808-1855), ông đã ngồi “võng đòn rồng” mấy nơi nhưng cuối đời lại tham gia cuộc khởi nghĩa của nông dân nên đã bị giết! Ông nổi tiếng vì tài thơ và có nghĩa khí chứ không phải nhờ uy quyền của “rồng”.
Một câu nữa cũng không hẳn đã đúng trong mọi trường hợp: “Trứng rồng lại nở ra rồng/ Liu điu lại nở ra dòng liu điu”. Câu ca dao này cũng đồng nghĩa với câu “Con vua thì lại làm vua…” nặng tư tưởng phong kiến, nhằm bảo vệ ngôi thứ của vua quan, khiến lớp người cùng khổ không còn nghĩ đến chuyện đổi đời.
Tuy vậy, khoa học về “gien” đã chứng minh sự di truyền qua các thế hệ về nhiều mặt. Lịch sử cũng đã ghi lại nhiều trường hợp, thế hệ con cháu đã tiếp nối truyền thống vẻ vang của cha ông. Trong các triều đại Lý, Trần, Lê có thể kể ra rất nhiều những con người như thế; Lý Thường Kiệt, Trần Quốc Tuấn, Trần Bình Trọng… không chỉ làm rạng rỡ dòng họ của mình mà còn làm sáng danh đất Việt. Nhưng đáng tiếc là cũng từ những dòng họ đó lại nảy sinh loại Trần Ích Tắc và Lê Chiêu Thống!…
Thế mới biết, có “dòng giống” tốt, mới chỉ là yếu tố ban đầu. Phải bền chí học tập, rèn luyện, mới nên NGƯỜI. Đó là chưa nói đến thời thế và tác động của môi trường xã hội.
Rồng cũng là nét văn hóa của kiến trúc chùa chiền
Vậy nên, thời nay, khi mà chế độ phong kiến con nối ngôi cha đã lùi sâu vào quá khứ, càng phải rất công tâm, thận trọng trong việc cất nhắc, lựa chọn người nắm giữ quyền lực và tài sản của nhân dân, từ một chủ tịch xã, kế toán trưởng công ty cho đến những cương vị có tầm ảnh hưởng rộng lớn. Đừng vì “con ông cháu cha” mà ưu ái xếp ngồi những “ghế” ngon lành.
Năm Thìn, dân Việt vốn từng tự hào là “con Rồng cháu Tiên”, hy vọng ai cũng gắng sức để góp phần đưa đất nước “hóa Rồng” và cùng được hưởng hạnh phúc của một đất nước sẽ cất cánh cùng những “con rồng” bên biển Thái Bình Dương.
Rừng Trong Văn Học Việt Nam
Rừng trong văn học Việt Nam
Thái Công Tụng
1. Dẫn nhập
Con người từ thời cổ đại cách đây mấy trăm ngàn năm cũng phải dựa vào rừng mà sống: rừng đã là nơi cung cấp chỗ trú ẩn, chỗ nương tựa, chỗ săn bắn, vật liệu làm nhà.. Do đó con người tôn thờ cây như một cái gì linh thiêng, chứa đựng những linh hồn.
2. Vai trò của rừng.
Có thể nói rừng liên hệ đến con người qua 4 khía cạnh chính sau đây :
2.1 cung cấp :
-rừng cung cấp gổ củi: gổ làm bàn ghế giường tủ; củi nấu ăn, nung trong lò gạch, làm than .
– rừng cung cấp các sản phẩm ngoài gỗ củi như nấm, mật ong, măng tre, mây, hoa lan, dược thảo, trầm v.v. Người lính thú đời xưa ở các đồn hẻo lánh cũng chỉ dựa vào rừng m à sống:
Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thời canh điếm tối dồn việc quan
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai
Miệng ăn măng trúc măng mai
– rừng cung cấp thuốc trị bệnh
Xưa kia, con người nhờ các loại cây cỏ trong rừng để chữa bệnh vì cây cỏ có chất làm lành vết thương, giải nhiệt, giải độc, mụn nhọt, trị cảm cúm, trị ho .. Ngày nay, dù khoa học có tiến bộ nhưng rừng vẫn là nơi các thực vật cung cấp nguyên liệu để khảo cứu, trích các tinh dầu
Nạn sốt rét gây tàn phá làm chết rất nhiều sinh mạng. Cây quinquina (Cinchona sp) cho chất quinine và các thuốc trị sốt rét như chloroquine, quinacrine, primaquine đều từ quinine mà ra .
Trong quãng 3000 cây chứa các đặc tính chống ung thư thì có đến hơn 2000 cây từ rừng nhiệt đới .
2.2 rừng cho nhiều loại trái cây ăn được
Nhiều loài cây trong rừng có trái ăn được: sim, mồng quân, dâu rừng, trái giẻ (noyer; walnut), trái mơ ..
Trái sim có nhiều miền duyên hải Trung Việt:
Đói lòng ăn mớ trái sim
Nhịn ăn khát nước đi tìm người thương
Trái mơ cũng có trong thơ Nguyễn Bính :
Thơ thẩn đường chiều một khách thơSay nhìn xa rặng núi xanh lơ. Khí trời êm ả và trong trẻo Thấp thoáng rừng mơ cô hái mơ.
2.3 điều hoà : rừng hút được chất CO2 và nhả ra oxy; rừng cản dòng nước lũ, giữ lại một phần lượng nước mưa và như vậy, giảm xói mòn, lũ lụt, giúp nước ngầm phong phú hơn. Trong thời kỳ biến đổi khí hậu như hiện nay mà thủ phạm là các khí thải CO2 do sự sử dụng các nhiên liệu hoá thạch như than đá, dầu hoả và hơi đốt thì rừng giúp giảm các khí đó vì với hiện tượng quang hợp, cây rừng có thể hút được các loại khí CO2. Thực vật rừng cũng có khả năng bốc và thoát hơi nước nên trong khí quyển có nhiều hơi nước bốc lên cao làm nguồn nước mưa . Nếu phá rừng thì mỗi khi mưa to, gió, bão, lại càng dễ bị lụt hơn . Lý do là vì nhờ cây rừng có thể giảm được sức mạnh của dòng chảy. Tại nhiều miền duyên hải nhiệt đới, có loại rừng ngập mặn với cây bần, cây đước. Loại rừng này giúp chận lại các trầm tích phù sa và cũng giúp cản trở dòng nước mặn ngoài biển vào nội điạ . Rừng ngập mặn che chở cho cả một hệ sinh thái đa diện dưới chân nó: cua, tôm, cá, cá sấu và chim cò, khỉ, ong trên cây
Trong bài Lời nguyện của rừng, có những câu sau, đề cao vai trò đều hoà đọc ghi nhận :
Để ta sống, ta điều hòa mưa nắng, hoa xinh tươi cây cối nẩy thêm tươi.
Để ta sống, ta ngăn luồng vũ bão; chận cát bay làn gió bốc tung trời.
Để ta sống, ta đùn mây quyện gió, gieo mưa tuôn đầm ấm cõi trần gian.
Để ta sống, ta cản dòng nước lũ, cứu nhân dân cơn thủy nộ lầm than.
2.4 rừng đóng góp vào các giá trị văn hoá, như tâm linh, thẩm mỹ, giải trí, sức khoẻ và giáo dục
Rừng không phải chỉ là tài nguyên hay môi trường vật lý mà rừng là tâm linh, là cõi vĩnh hằng, là cõi sâu thẳm của nội tâm, là ‘một cõi đi về’
Các tôn giáo lớn luôn luôn nhắc nhở đến cây: cây bồ đề trong Phật giáo, rừng trúc ở đó Phật Thích Ca truyền đạo; cây sồi trong Thánh Kinh
Rừng có vai trò to lớn trong đời sống tinh thần của con người, và nhất là con người thời đ ại ngày nay . Với dân số tăng nhanh, với công nghiệp hoá, đô thị hoá, loài người đã mất đi không gian thiên nhiên, chỉ sống với cao ốc beton, chung đụng với ô nhiễm, với tiếng đ ộng nhà máy, tiếng động xe cộ, máy bay v.v. do đó, muốn lấy lại thăng bằng, con người ngày nay lại càng cần đi tìm những khu rừng, những ngọn núi cao vì chỉ ở đó, họ mới cảm thấy mình tan biến trong cái tĩnh lặng uyên nguyên. :
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Lắm khi con người ngày nay sống hối hả ở đô thị cũng chỉ muốn những niềm vui đơn giản như đi dạo dọc theo hàng me xanh lướt thướt như trong câu thơ : Con đường có lá me bay, chiều chiều ta lại cầm tay nhau về., tìm lại chút bình yên thư thái
Vào rừng, thở không khí trong lành, nhìn sao ban đêm, nhìn suối, nghe nước róc rách, bướm lượn nhởn nhơ, chuồn chuồn, nghe côn trùng rỉ rả, mặt trăng lên, sao đêm nở đày trời, giúp ta tránh được các căng thẳng của cuộc sống máy móc đô thị, giúp ta quên đi những nôi nhọc nhằn của thể chất và của tâm linh, ngỡ lòng mình là rừng, ngỡ hồn mình là mây (thơ Hồ Dzếnh), tạo điều kiện giúp con người thoát tục dễ dàng hơn, buông xả được các bụi bặm phù du phiền muộn của cái tôi để hoà mình vào nhịp sống bao la của vũ trụ, giúp ta dễ đồng nhất với vũ trụ, cảm nghiệm lẽ trời trong tĩnh lặng để buông xả, để phá chấp.
Ta cũng thấy trước cảnh vật bao la của vũ trụ rằng con người chỉ là một thành phần nhỏ bé và từ đó cảm thấy khiêm tốn hơn .Mà khiêm tốn giúp cho con người đến đức tin chân thật và đức tin chân thật mới hưóng dẫn con người đến được nơi có Thượng Đế ngự trị dễ đi vào nội tâm hơn, cõi lòng lắng xuống .
Hãy đọc Bà Huyện Thanh Quan:
Dừng chân đứng lại :trời, non, nước
Một mảnh tình riêng ta với ta
Chỉ có hai câu thơ cổ điển trên mà bao gồm mọi yếu tố môi sinh: nào là dừng chân trên đất (thổ quyển), nhìn trời tức mây trôi, gió thổi (khí quyển), nhìn non tức là núi có đá là căn nguyên của đất (thạch quyển), nhìn nước tức sông suối, biển (thủy quyển) và sinh vật, tức tác giả bài thơ (sinh quyển)
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
đến những nương dâu bát ngát trong cảnh khi người vợ lính chiến xa chồng:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngắt một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai !
Trong văn học dân gian, cũng nhiều ca dao tục ngữ đề cập đến rừng
Tình yêu trai gái cũng sử dụng thiên nhiên để so sánh:
Chim xa rừng thương cây nhớ cộí
Người xa nguời tội lắm người ơi
Nỏ thà không biết thì thôi
Biết nhau rồi mỗi đứa một nơi, răng đành
Tình yêu trai gái đôi khi cũng mãnh liệt như trong hình ảnh này :
Yêu người như suối cuộn rừng sâu, như con tàu say gió v.v (bài Phượng Yêu)
Một môi trường hài hoà, êm ả giúp con người thảnh thơi trí óc để có thể có tư duy sáng tạo, tư duy thiền:
.. Thu ăn măng giá, đông ăn trúc
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta sẽ nhắm
Nhìn xem phú qúy tựa chiêm bao
Chúng ta đang ở Quebec, thấy mùa thu với lá nửa vàng nửa đỏ, sau đó từ đầu tháng 10 trở đi là lá bắt đầu rụng: Thu đi cho lá vàng bay, lá rơi cho đám cưới về
Lá rụng vào thu cũng là cảm xúc cho bao nhiêu nhạc sĩ, thi sĩ viết lên nhiều bài thơ, bài nhạc để đời :
Rừng thu thay lá mưa bay buồn rầu
Rừng đông buốt giá mưa bay dạt dào
Rừng thu lá úa em vẫn chưa về
Rừng đông cuốn gió em đứng bơ vơ
Kiếp người cũng được ví như mùa thu với những chữ quên lãng, chết, rất ngắn, nhạt phai trong bài Nhìn những mùa thu đi “Nhìn những mùa thu đi, em nghe sầu lên trong nắng/ Và lá rụng ngoài song, nghe tên mình vào quên lãng/ Nghe tháng ngày chết trong thu vàng (…) Đã mấy lần thu sang / Công viên chiều qua rất ngắn / Chuyện chúng mình ngày xưa, anh ghi bằng nhiều thu vắng, đến thu này thì mộng nhạt phai”.
Thơ của Hoàng Ngọc Ẩn Rừng lá thay chưa cũng nói đến sự vô thường của kiếp người:
Anh đi rừng chưa thay lá
Anh về rừng lá thay chưa
Phố củ bây chừ xa lạ
hắt hiu đợi gió giao mùa
Khi nàng Kiều tiễn chân Thúc sinh về quê vợ, cụ Nguyễn Du đã lồng vào cảnh mùa thu:
Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san
Người về chiếc bóng năm canh
Kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi
Cũng khi trời vào thu thì nhiệt độ hạ thấp, nước ngầm trong đất bị đông lại nên thực vật phải thich nghi với sự thay đổi khí hậu bằng cách rụng lá, nhưng trước đó, lá cây từ từ chuyển màu từ xanh sang màu vàng, màu đỏ, –nhuốm màu quan san – như mọi rừng ôn đới có lá rụng (temperate deciduous forest ) ở Canada.
Loại rừng này có ở các vùng miền hạ lưu sông Dương Tử, sông Hoàng hà, nghĩa là các vùng khí hậu ôn đới . Loại rừng này cũng có nhiều bên Âu Châu (Pháp, Đức ..) và ngoài cây phong (tên Latin là Acer, họ Aceraceae), còn có nhiều loại cây khác như cây sồi (chêne; oak), cây sồi rừng (hêtre), cây tần bì (frêne; ash), cây lê đá (sorbier), cây đào gai (aubépine), cây hồ đào ( noyer; walnut); cây dẻ (chataignier; chesnut); cây dương (peuplier; poplar); cây du (orme; elm), cây dẻ (marronnier; common-horse chesnut). Loại rừng này hiện diện ở các vùng núi phía Montreal, Sherbrooke, Hull, Trois Rivieres) …Gần mặt đất, trong loại rừng ôn đới này có nhiều loài dương sĩ, thảm cỏ tươi, thảm cỏ mục. Động vật thì gặp các loài chồn, chim, sóc ..
Tưởng cũng cần nói thêm là trên thế giới, tùy theo khí hậu, ta có những loại rừng khác nhau. Vài ví dụ: tại Việt Nam, Indonesia, Mã Lai cũng như vùng Amazone bên Brésil, có rừng mưa nhiệt đới (tropical rainforest), có nhiều tầng cây con chằng chịt.
Cũng có loại rừng khô nhiệt đới (tropical seasonal forest) khi có mùa khô kéo dài như các rừng Đông Bắc Ấn độ, Đông Bắc Thái Lan.
Trên kia là nói về rừng ôn đới trong đó có cây phong là cây chiếm dạng ưu thế .Nhưng ở ven sông, thường có nhiều đất ẩm thì thực vật cảnh hay quần xã thực vật thường gặp là một loại rừng khác, có tên là rừng ở bờ nước (riparian forest) với những rặng liễu:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng
(thơ Xuân Diệu)
hoặc cây liễu như trong câu Kiều:
Sông Tần một giải xanh xanh
Loi thoi bờ liễu mấy cành dương quan
2.5 rừng có vai trò hỗ trợ như giúp tạo ra đất, làm nhiều khối đá đầu tiên vỡ ra . Thực vật với rễ cây có thể xuyên qua các khe nứt của đá và dần dà làm đá bể ra, tạo điều kiện dễ dàng cho đất hình thành ; rễ cây và vi sinh vật thải vào môi trường chất CO2 và các acid khác nhau để huỷ hoại các khoáng chất trong đá, giúp sự phong hoá dễ dàng hơn
3. Kết luận
Với sự biến đổi khí hậu toàn cầu do sự phát thải các khí độc của các nhà máy, xe cộ, kéo theo nhiều hệ quả như băng hà tan, nước biển dâng, bão lụt tăng thì vai trò bảo vệ môi tr ường lại càng quan trọng hơn .
Do đó, giáo dục môi sinh trong học đường rất cần thiết; những thơ văn, ca dao, tục ngữ đề cao vai trò của môi sinh, từ sông ngòi đến thác nước sẽ giúp trẻ em học sinh hiểu nhanh hơn vai trò cûa con người trong các hệ sinh thái nhằm bảo vệ chung trái đất.Giáo dục cho mọi người về sự cần thiết của niềm đồng cảm giữa người và vũ trụ, tình gắn bó giữa con người với thiên nhiên để con người yêu thêm thiên nhiên, tạo vật, tìm lại mây trời hiền hoà, màu xanh của nước và của núi rừng, nói theo danh từ thời đại là green awareness và từ đó thấy sự cần thiết có một sự hài hoà giữa dân số và thiên nhiên, hài hoà giữa thiên nhiên và phát triển kinh tế, một sự hài hoà mà chính hệ thống triết học Á Đông luôn luôn đề cao.
Thái Công Tụng
.
‘Tục Ngữ Phong Dao’: Di Sản Văn Hóa Dân Gian Của Dân Tộc Việt
Bộ sách “Tục ngữ phong dao” dù ra đời đã lâu, đến nay vẫn được phổ biến rộng rãi, được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu và viết về tục ngữ ca dao Việt Nam.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội năm 1988: Tục ngữ là câu ngắn gọn, thường có vần điệu, đúc kết tri thức, kinh nghiệm sống và đạo đức thực tiễn của nhân dân; phong dao là những bài ca dao cổ.
Những câu tục ngữ như “Tối như đêm ba mươi”, “Tiễn ông Táo lên chầu trời”, “No ba ngày tết, đói ba tháng hè”… đều đi sâu vào đời sống nhân dân, được truyền từ đời này sang đời khác. Cũng có nhiều câu nói dần bị mai một, rồi biến mất, đó là điều rất đáng tiếc.
Ý thức được việc gìn giữ di sản quý giá của dân gian, nhiều cuốn sách về tục ngữ phong dao đã được biên soạn, như An Nam phong thổ thoại của cụ Thiên Bản cư sĩ Trần Tất Văn; Thanh Hóa quan phong sử của cụ Vương Duy Trinh; Đại Nam quốc túy của cụ Sự Sự Trai Ngô Giáp Đậu; Tục ngữ An Nam của cụ Triệu Hoàng Hòa; Nam ngạn trích cẩm của Phạm Quang Sán; Gương phong tục của Đoàn Duy Bình; …
Tuy nhiên, những sách này được biên soạn hoặc không theo trật tự nào, hoặc đối nhau thì hai câu một, hoặc chia ra từng mục như trời đất, năm tháng, tiền của, văn học; hay từng thiên như Sơn Tây, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thừa Thiên; từng chương như Tống Sơn, Nga Sơn, Hoằng Mỹ, Hậu Lộc;… Trong thực trạng đó, Nguyễn Văn Ngọc vẫn ấp ủ và khao khát tập hợp di sản tục ngữ phong dao của Việt Nam thành một cuốn sách có hệ thống, có tác dụng lưu giữ cho tương lai.
Sách Tục ngữ phong dao được in lần đầu tiên tại Vĩnh Hưng Long thư quán, năm 1928. Cuốn sách tập hợp các sáng tác ca dao, tục ngữ, câu đố, câu đối…., được phân chia theo thể loại rõ ràng, mạch lạc. Trong mỗi thể loại, các bài lại được sắp xếp theo vần, trong mỗi vần lại được chia theo số chữ, vô cùng cẩn thận, tỉ mỉ, giúp độc giả dễ theo dõi.
Đầu năm 2019, cuốn sách được tái bản lại, với diện mạo mới, đồng thời bổ sung thêm những chú thích, dị bản, giúp độc giả có cái nhìn đa dạng hơn về một nền văn hóa dân gian đồ sộ của dân tộc.
Trong bản in mới, Tục ngữ phong dao được chia thành 2 tập. Tập 1 thuộc về thể phương ngôn, tục ngữ từ ba chữ đến hai mươi chữ; tập 2 thuộc về thể phong dao, từ bốn câu trở lên.
Tục ngữ phong dao có khoảng gần 6.500 câu và 850 bài, với gần 700 trang sách dày dặn, được xem là một kho vàng chung của nhân loại. Theo nhà nghiên cứu Lê Thanh Hiền, cuốn sách là “tập hợp đầu tiên những giá trị tinh thần do các thế hệ người lao động Việt Nam sáng tạo và truyền khẩu qua hàng nghìn năm, được sưu tầm, biên soạn nghiêm túc ấn thành văn bản”.
Việc tập hợp, biên soạn, hệ thống tục ngữ ca dao của Nguyễn Văn Ngọc, theo ông, “cốt ở một điều là cứ theo như cái phong trào có mới nới cũ ngày nay, ai là người đã lưu tâm đến quốc văn quốc túy mà không lo sợ rằng những câu lý thú tối cổ của ông cha để lại, mà tức là cái kho vàng chung cho cả nhân loại nếu không chịu mau mau thu nạp, giữ gìn lấy, thì rồi tất mỗi ngày một sai suyễn, lưu lạc đi thực rất là đáng tiếc. Cho nên chúng tôi quả không dám kén chọn lựa lọc, san Thi gì”.
Bởi kho tàng tục ngữ ca dao của dân tộc quá đồ sộ, đồng thời cũng có mong muốn tập hợp được càng nhiều càng tốt, nên ở cuốn sách, Nguyễn Văn Ngọc chú trọng và việc thu thập thật nhiều câu, có khi không phân biệt rõ ràng thế nào là thành ngữ, tục ngữ, lý ngữ, sấm ngữ, mê ngữ, phương ngôn, đồng dao, ca dao hay phong dao.
Tác giả cho rằng, “đối với công việc sưu tập bây giờ, thiết tưởng ta còn phải quý hồ đa trước rồi nhiên hậu mới có nơi khảo cứu mà quý hồ tinh được.”
Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục trong bài viết Triết học bình dân trong tục ngữ phong dao đã viết tục ngữ phong dao “phản chiếu một cách trực tiếp và trung thành những cảm nghĩ của nhân dân sinh sống hàng ngày trong nhân quần xã hội và tiếp xúc với cảnh vật trong hoàn cảnh thiên nhiên. Như vậy thì tục ngữ phong dao chứa đựng những kinh nghiệm thực tế, những lẽ phải phổ thông của dân tộc. Chúng còn có ý nghĩa hơn là ngôn ngữ nói chung, vì đó là những cảm nghĩ đã trải qua kinh nghiệm và suy luận của đại chúng. Nếu phân tích ngôn ngữ có thể tìm ra một triết lý bình dân Việt Nam, thì nghiên cứu tục ngữ phong dao càng làm cho ta thấy cái triết lý ở một trình độ cao hơn và phong phú hơn nhiều.”
Cũng bởi thế, việc sưu tầm, biên soạn và lưu giữ di sản tục ngữ phong dao của dân tộc là việc là có ý nghĩa quan trọng, “để vun trồng cho các học văn Việt Nam của tổ tiên xưa được chắc rễ, bền cây”, đồng thời góp phần phát triển ngôn ngữ Việt hiện đại đa dạng, phong phú.
Bộ sách Tục ngữ phong dao dù ra đời đã lâu, đến nay vẫn được phổ biến rộng rãi, được nhiều nhà nghiên cứu sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu và viết về tục ngữ ca dao Việt Nam.
Nguyễn Văn Ngọc (1/3/1890 – 26/ 4 /1942) tự Ôn Như là nhà văn, nhà giáo, nhà nghiên cứu văn hóa Việt Nam.
Nguyễn Văn Ngọc có lòng say mê đặc biệt với văn hóa, văn học phương Đông, nhất là văn hóa, văn học dân tộc. Ông cho ra đời nhiều cuốn sách bằng tiếng Hán, tiếng Pháp và chữ Quốc ngữ. Ông tham gia biên soạn các sách giáo khoa như Phổ thông độc bản, Phổ thông độc bản lớp đồng ấu, Luân lý giáo khoa thư, Giáo khoa văn học An Nam, Đông Tây ngụ ngôn. Về khảo cứu, Nguyễn Văn Ngọc có Cổ học tinh hoa, Nam thi hợp tuyển, Đào nương ca, Truyện cổ nước Nam, Ngụ ngôn, Tục ngữ phong dao…
Bạn đang xem bài viết Rồng Trong Ngôn Ngữ Và Văn Học Dân Gian Việt Nam trên website Boxxyno.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!