Cập nhật thông tin chi tiết về Nhà Thơ Nguyễn Đình Chiểu Và Những Bài Thơ Đặc Sắc Nhất Phần Cuối mới nhất trên website Boxxyno.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Nội Dung
Trời mưa từng trận gió từng hồi, Thế giới bao nhiêu nước khỏa rồi. Lũ kiến bất tài đòi chỗ bợ, Đấu bèo vô dụng kết bè trôi. Lao xao rừng cụm nghe chim chíp, Lổm xổm giường cao thấy chó ngồi. Nỡ để dân đen trên gác yếu, Này ông Hạ Vũ ở đâu ôi!
Ba vua năm đế dấu vừa qua, Nối đạo trời rao đức thánh ta. Hai chữ can thường dằn các nước, Một câu trung hiếu dựng muôn nhà. Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà. Căm lấy lòng nhơ mong thói bạc, Trời gần chẳng gánh gánh trời xa
Tượng mảng: Lẽ trời sinh vật; Vật ấy nhiều loài.
Lấy câu thuận tính làm lành; Thấy chữ nghịch thường mà ngán.
Nhỏ là loài ong kiến, còn biết nghĩa quân thần; Lớn là loài hổ lang, cũng niệm tình phụ tử.
Kìa như thước báo tai, cưu báo hỷ, đời cũng nhờ lành dữ đem tin; Nọ như khuyển thủ dạ, kê tư thần, người còn cậy sớm khuya an giấc.
Lò tạo hoá nhúm nhen khắp vật, vật nào hay khuấy rối sự nhà; Thợ hoá công đúc nắng nhiều loài, loài nào dám xoi hao mạch nước?
Nay có loài chuột: Lông mọc xồm xàm; Tục kêu xù, lắt.
Tính hay ăn vặt; Lòng chẳng kiêng dè.
Chỗ ở ăn hang lỗ nhiều bề; Đường qua lại đào ra hai ngách.
Nghe hơi động vội vàng chạy mất, nhát quá mẹ cheo; Chờ đêm khuya sẽ lén lút nhau, liếng hơn cha khỉ.
Gọi danh hiệu: chuột xạ, chuột lắt, chuột xù, chuột cống, anh em dòng họ nhiều tên; Tra quán chỉ: ở nhà, ở ruộng, ở rạch, ở ngòi, bậu bạn non sông lắm lối.
Lớn nhỏ răng đều bốn cái, ăn của người thầm tối biết bao nhiêu; Vắn dài râu mọc hai chỉa, vắng mặt chủ lung lăng đà lắm lúc.
Vả sáu mươi giáp hoa đứng trước, lẽ thì thiện tính linh tâm; Thì mười hai chí tuế ở đầu, cũng đáng cư nhân do nghĩa.
Cớ sao lại đem lòng quỷ quái? Cớ sao còn làm thói gian tham?
Túi đông pha thường bữa tha gừng; Ruộng nam quách ghe phen cắn lúa.
Nếp gạo của trời nuôi mạng, ăn phá rồi còn kéo xuống hang; Nệm mền của chúng che thân, cắn nát lại tha vào lỗ.
Hoặc nằm ngửa cắn đuôi tha trứng vịt, gây nên thằng tớ chịu đòn oan; Hoặc leo dây ngóng cổ gặm giò heo, để án con đòi mang tiếng khổ.
Vậy cũng gọi mình hay ngũ kỵ; Vậy cũng khoe ngồi trước tam tài.
Chẳng xét mình vò nuốt dưới cầu; Lại quen lần mò ben vách.
Sách Lỗ sử biên câu thực giác, vì miệng ai nên vua lỗi đạo thờ trời; Thơ Quốc phong để chữ thực miêu, vì miệng ai cho nên dan xa lăng bỏ đất.
Ghe phen trách quần hư áo lủng, vì miệng ai cho nên chồng vợ giận nhau; Nhiều chỗ than vách ngã tường xiêu, vì miệng ai cho nên cha con đứt bẩn.
Nền xã tắc là nơi báo bổ, can chi mi đào lỗ, đào hang; Chốn miếu đường là chỗ thanh tán, cớ chi ngươi cắn màn, cắn sáo.
Kẻ trinh nữ ghét thằng cuồng bạo, cũng còn mang tiếng thử dâm; Án Long đồ tra đứa gian tà, hãy còn mắc cái câu thử thủ.
Gối ngoã chú Nghiêu phu đà đến bể, khen cho quỷ quái chẳng chừa; Gây phi long Linh kiết đã tưng bừng, sao hãy yêu tinh không gớm.
Nham độn mười hai ngôi tướng, cho hay thần hậu thật tướng gian; Diễn cầm bốn bảy vì sao, phải biết hư nhật là sao dữ.
Sâu hiểm bấy tấm lòng nghiệt thử cục cứt ra cũng nhọn hai đầu; Báu xót chi manh áo thử cầu, tấm da lột không đầy ba tấc.
Tuy là tướng hữu bì hữu chất; Thật là loài vô lễ vô nghi.
Luận tội kia đã đáng phân thi; Thứ tay nọ cũng vì kiêng vật.
Giận là giận trộm đồ bàn Phật, trốn án mà xưng vương; Căm là căm cắn sách kẻ nho, đành lòng mà phá đạo.
Ngao ngán bấy cái thân chuột thúi, biết ngày nào ô thước phanh phui; Nực cười thay cái bụng chuột tham, uống bao thuở Hoàng Hà ráo cạn.
Ví có ngàn giòng nước khảm, khôn bề rửa sạch tội đa dâm; Dẫu cho muôn nén vàng đoài, cũng khó mua riêng hình bất xá.
Tội dường ấy đã nên ác quá; Ta tới đây há dễ nhiêu dung.
An tiên phuông nấy gã rắn rồng; Phù tập hậu sai chim bả cắc.
Sắm sửa binh sương giáp sắt; Trau giồi ngựa gió xe trăng.
Giống trống sấm xuất binh; Phất cờ lau tập trận.
Đuốc Điền Đan sắm sẵn, để phòng khi un đốt ngạch u vi; Đèn Lý Bạch đái tuỳ đặng chờ thuở xét soi hang uất khúc.
Hàng hàng bố liệt thương đao; Nhập sào huyệt phá hồ lỗ chuột.
Phải nghe ta dặn, sắm sửa đủ đồ: Cuốc xuổng đào hang, phảng mai chận ngách.
Trả, trách, nồi niêu rửa sạch, thượng kỳ: phù địch khái chi tâm; Tiêu, hành, sả, ớt muối đâm, thứ dĩ: tạ chúng nhân chi khẩu.
Chớ để con nào sơ lậu, phải ra tay lấp lỗ tam bành; Đừng cho chúng nó sẩy ra, phải hết sức trừ đồ lục tặc.
Bốn phương đều ngợi chữ thăng bình; Thiên hạ cũng vui câu án đổ.
Ngũ hổ năm anh tướng rất mầu, Đâu dè đến nỗi thất Kinh Châu. Thời Lưu chưa đạt hay sao đặng, Vận Hớn còn suy giỏi mặc dầu. Tiếc bấy công trình Gia Cát Lượng, Uổng thay mỏi mệt Hán Đình hầu. Nghĩ thương cái phận Lưu Huyền Đức, Nhiều nỗi Đàn Khê dễ sá âu.
Thương tình bào đệ, Gửi bức tâm thư.
Nghe em lăm toan việc tóc tơ, Nên anh mới nhả lời vàng ngọc.
Hễ làm người có học, Cho biết lễ trong nhà.
Chẳng trau mình sao đặng chữ tề gia, Còn nhỏ tuổi gấp chi đàng cầu tự.
Ví dù muốn nơi nào thiếp nữ, Thì hãy giao quyền tại chính thê.
Thuận chị em trên dưới gia tề, Nghịch chồng vợ cửa nhà hư hại.
Trong phép xử gia môn đặng phải; Ngoài tiếng đồn phong hoá mới xinh.
Lẽ cũng cho một gáo múc đôi chình; Khuyên chớ để đôi rìu cuôi một cội.
Vả đang lúc sự đời bối rối, Nào xiết lo nghiệp cả bâng khuâng.
Phận thiếp thê mà có như Tề nhân, Niềm tử tức, thà không như Bá Đạo.
Em ôi! May mà có mai cơm chiều cháo, Hơn là người ăn tuyết nằm sương.
Ở nước loàn há sợ chữ thiên ương, Theo đạo học phải dằn lòng nhân dục.
Ham sung sướng chẳng qua nuôi khẩu phúc, E nghiêng nghèo còn nhọc đến thân danh.
Bậc quan quyền, chiếu bông gối dựa mới là vinh. Hàng dân thứ, quần nhiễu, áo sô sao chẳng nhục.
Trau giồi lắm cho đẹp con mắt tục, Ghen ghét nhiều lại chác cái tai phi.
Vậy thà cam hai chữ bố y, Chi nhọc đến một điều mao ốc.
Bì sao kẻ thế gia vọng tộc, Coi lấy người tiện sĩ bần nhu.
Thời thế nầy thà chịu làm ngu, Học hành vậy cũng kêu là trí.
Em sao chẳng nghĩ! Anh rất đỗi lo!
Bề ở ăn như cá núp trong nò; Thân đùm đậu như én nằm trên gác.
Cám nỗi phụ huynh thêm bát ngát; Phận làm tử đệ há nguôi ngoai?
Sung sướng chi mà chồng một vợ hai; Giàu sang mấy mà quần đôi áo cặp?
Thân rảnh sao chẳng cấp; Tính xấu cũng nên chừa.
Trời, không lường trưa sớm nắng mưa; Người, đâu biết hôm mai hoạ phước.
Chi bằng: Giữ câu kiệm ước, Lánh bợm phong lưu.
Việc … oán hận chẳng nên cưu; Thói ve vãn ăn chơi đừng bắt chước.
Hàng đi đứng tua dè nước bước; Lời nói năng phải giữ miệng môi.
Phận áo cơm đã đủ thì thôi; Ơn đất nước ngày an cũng tốt.
Bề ăn ở chi bằng đái chốt; Dạ thảo ngay chí dốc keo sơn.
Có nghĩa tình anh Tấn em Tần, Đừng nghe chuyện cha Hồ mẹ Hán.
Đọc sách y phương, cho biết án; Làm thầy nho sĩ, phải theo tài.
Dược trị đau chớ khá học sơ sài; Phép dạy trẻ chớ nên oai bẫm trợn.
Nghe nhiều kẻ tiếng đời nhơ bợn; Muốn cho em mùi đạo thơm tho.
Khá nhớ lời gia giáo dặn dò, Khuyên chớ để xử thân lầm lỗi.
Nay gửi vài lời huấn hối, Xưa còn trăm chữ minh châm.
Nhớ để lời hôm sớm vịnh ngâm. Hãy chữ dạ khỏi điều quá thất.
Phi liêm xe ngựa đóng phương nao? Oai gió đưa ra nước bến trào. Thổi thốc miếu chùa hơi vụt vụt, Xô nhào cây đá tiếng ào ào. Ai rằng đầm Lộc mê Ngu Thuấn? Ta nhớ sông Tuy giải Hán Cao! Một trận bão rồi bờ cõi sạch, Trời thu như cũ mãi không xao.
Đã đành trôi nổi tấm thân bèo, Mình nghĩ lòng mình dám nói leo. Đánh xé sau khi cò mổ vọp, Sụt trồi đâu dám ốc mang rêu. Cửa rồng muôn dặm may còn nhóm, Bến Nghé năm canh quạ hãy kêu. Chén rược xóm riềng cho cũng uổng, No sau xin để mặt ăn heo.
Vì câu danh nghĩa phải đi ra, Day mũi thuyền nan dạ xót xa. Người dễ muốn chi nương đất khách, Trời đà khiến vậy mến vua ta. Một phương thà tránh đường gai gốc, Trăm tuổi cho tròn phận tóc dạ. Chén rượu ấm lòng xin cạn chén, Nhớ nhau ngày khác biết sao mà.
Hoá công máy móc ở đâu nà, Trăm thợ nhân gian nghẻ ngóc ra. Sáu tỉnh đua làm nghề khéo léo, Năm châu sắm đủ của xây xoa. Mẫu tuồng đơn kép theo hình thế, Mỗi việc lâu mau tại ý ta Máy tạo trong tay nào có vụng, Chi lăm lương đống nước cùng nhà.
Trải qua nắng hạ lúc mưa thu, Cày cấy ghe phen sức dãi dầu. Ấm lạnh trọn bề vài đám ruộng, Làm ăn giữ bổn mấy con trâu. Chuyên nghề Hậu Tắc nhà hằng đủ, Giỏi việc Mân phong nước chẳng sầu. Nhờ gặp mùa màng trời đất thuận, Cứ trăm giống thóc một tay thâu.
Lòng hềm kinh sử mấy mươi pho, Vàng ngọc nào qua báu học trò. Hoa trái rừng nhu ra sức hái, Nghê kình biển thánh ráng công mò. Cẩm văn thêu dệt đời đời chuộng, Mùi đạo trau giồi bữa bữa no. Gặp thuở mày xanh siêng đọc sách, Mỗi câu đều hưởng phúc trời cho.
Một câu thế lợi mở muôn nguồn, Giàu có đua nhau việc bán buôn. Các chợ sinh tài trăm họ nhóm, Chiếc thuyền trực hoá bốn phương luồn. Trái cân Yến tử không rơi dấu Cuốn sách Đào công chẳng hết tuồng. Chờ giá rủi may may gặp vận, Ra vào biết mấy của nghìn muôn.
Mối tơ ai gỡ lúc này xong, Một dải trời Nam biết mấy trùng. Kẻ ứa gan trung trương mắt ngó, Người liều dạ sắt múa tay không. Đến hay trung nghĩa theo tro bụi, Hoài của giang sơn trút biển Đông. Ơn nước, nợ nhà đành có thuở, Biết bao chờ đợi, biết bao trông!
Chiều chiều lại nhớ đến chiều chiều, Cám cảnh giang sơn biết bấy nhiêu! Dấu cũ gò bằng nền Hạ Vũ, Phép xưa khuôn trái luật Đường Nghiêu. Hứa Do ngơ mắt làm thằng mục, Sào Phủ nghiêng tai giả chú tiều. Thế vạy răn mình đừng có vạy, Cờ mao chống chỏi chớ cho xiêu.
Hỡi ôi! Tủi phận biên manh; Căm loài dương tặc.
Ngoài sáu tỉnh hãy ngợi câu án đổ, dân nhờ vua đặng lẽ sống vui; Trong một phương sao mắc chữ lục trầm, người vì nước rủ nhau chết ngặt!
Nhớ các linh xưa: Tiếng đồn trung nghĩa đến xa; Thói giữ cương thường làm chắc.
Từ thủa Tây qua cướp đất, xưng tân trào gây nợ oan cừu; Chẳng qua dân mắc nạn trời, hoài cựu chúa mang lời phản trắc.
Các bậc sĩ nông công cổ, liền mang tai với núi song tâm; Mấy nơi tổng lý xã thôn, đều mắc hại cùng cờ tam sắc.
Bọn tam giáo quen theo đường cũ, riêng than bất hạnh mang nghèo; Bầy cửu lưu cứ nối nghề xưa, thầm tủi vô cô chịu cực.
Phạt cho đến người hèn kẻ khó, thâu của quay treo; tội chẳng tha con nít đàn bà, đốt nhà bắt vật.
Trải mười mấy năm trầy khốn khó, bị khảo, bị tù, bị đày, bị giết, trẻ già nghe nào xiết đến tên; Đem ba tấc hơi mọn bỏ liều, hoặc sông hoặc biển hoặc núi hoặc rừng, quen lạ thảy đều rơi nước mắt.
Khá thương thay! Dân sa nước lửa chầy ngày; Giặc ép mỡ giàu hết sức.
Đành những kẻ cha thù anh oán, nhảy vòng báo ứng đã cam; Cực cho người vợ goá con côi, gây đoạn thảm sầu khôn dứt.
Man mác trăm chiều tâm sự, sống những lo trả nợ cho đời; Phôi pha một mảnh hình hài, thác rồi bỏ làm phân cho đất.
Nghĩ nỗi anh hùng nạn nước, bãi khô lâu nào mấy kẻ khóc than; Tưởng câu danh lợi tuồng đời, trường khối lỗi mặc dầu ai náo nức.
Trời hỡi trời! Lòng nghĩa dân phải với ngô quân; Tiếng nghịch đảng lỗi cùng địch vức.
Gần Côn Lôn xa đại hải, máu thây trôi nổi ai nhìn; Hàng cai đội bậc quản cơ, xương thịt rã rời ai cất?
Sống thời chịu nắng sương trời một góc, khó đem sừng ngựa hẹn quy kỳ; Thác rồi theo mưa ngút biển muôn trùng, khôn mượn thư nhàn đưa tin tức.
Thấp thoáng hồn hoa phách quế, lòng cố hương gửi lại bóng trăng thu; Bơ vơ nước quỷ non ma, hơi âm sát về theo luồng gió bấc.
Như vậy thì: Số dẩu theo sáu nẻo luân hồi; Khi sau để trăm năm uất ức.
Trời Gia Định ngày chiều ráng bắn, âm hồn theo cơn bóng ác dật dờ; Đất Biên Hoà đêm vắng trăng lờ, oan quỷ nhóm ngọn đèn trời hiu hắt.
An Hà quận đang khi bạch trú, gió cây vụt thổi cát xoáy bay con trốt dậy bên thành; Long Tường Giang mỗi lúc hoàng hôn, khói nước sông mù, lửa huỳnh nháng binh ma chèo dưới vực.
Nhìn mất chặng cờ lau trống sấm, mỉa mai trận nghĩa gửi binh tình; Thảm đòi ngàn ngựa gió xe mây, mường tượng vong linh về chiến lật.
Thôi! Người lạc phách theo miền giang hải, cung ngao lẩn thẩn, dành một câu thân thế phù trầm; Kẻ du hồn ở cõi sơn lâm, luỹ kiến đồn ong, còn bốn chữ “âm dung phảng phất”.
Ôi! Sống muốn cho an; Thác sao rằng bức?
Dẫu sớm thấy ngọn cờ điếu phạt, phận thần dân đâu chẳng toan còn; Chưa kịp nghe tiếng trống an hương, nghĩa quân phụ nào dè chết mất.
Hoặc là sợ như đất triêu Tần mộ Sở, cuộc can qua sông cũng ở ghê mình; Hoặc là e như trời nam Tống bắc Kim, đường binh cách thác đi cho khuất mặt.
Tiếc non nước ấy nhân dân dường ấy, gây sự này nào thấy phép tẩy oan; Biết cha mẹ đâu tộc loại ở đâu, chạnh tình đó mới ra ơn điếu tuất.
Tuy uổng mệnh hãy chờ khi sách mệnh, sẵn vòng quả báo vấn vương; Song oan hồn chưa có kẻ chiêu hồn, khiến tấm linh đài bực tức.
Nhớ phận áo cơm đất nước, trọn mấy năm ngóng cổ trông quan; So bề mồ mả ông cha, còn hơn đứa đành lòng theo giặc.
Đến nay: Cám cảnh Nam Trung; Trách lòng tạo vật.
Ví như sĩ sinh đời Đông Tấn, nay đánh Hồ mai dẹp Yết, thời phơi gan trong đám tinh chiên; Nào phải dân ở cõi U Yên, sớm đầu Hạ, tối về Liêu, mà trây máu bên đường kinh cức.
Phải trời cho mượn cán quyền phá lỗ, Trương tướng quân còn cuộc nghĩa binh; Ít người đặng xem tấm bảng phong thần, Phan học sĩ hết lòng mưu quốc.
Muôn dặm giang sơn triều thánh đố, gian sơn còn hơi chính đều còn; Nghìn năm hồn phách nạn dân này, hồn phách mất tiếng oan nào mất.
Dẫu đặng ơn nhuần khô cốt, cơn trị bình mới thấy đạo vương; Muốn cho phép vớt linh hồn, buổi ly loạn khôn cầu kinh Phật.
Ôi! Trời xuống nàn quỷ trắng mấy năm; Người uống giận suối vào vàng lắm bực.
Cảnh Nam thổ phơi màu hoa thảo, đọng tình oan nửa úa nửa tươi; Cõi Tây thiên treo bức vân hà, kết hơi oán chặng thưa chặng nhặt.
Ngày gió thổi lao xao tin dã man, thoắt nhóm thoắt tan thoắt lui thoắt tới, như tuồng bán dạng linh tinh; Đêm trăng lời giéo giắt tiếng đề quyên, dường hờn dường mến dường khóc dường than, đòi đoạn tỏ tình oan khuất.
Xưa nghe có bến sông Vị Thuỷ, lấy lễ nhân đầu tế lũ hồn oan; Nay biết đâu bãi cát Trường Sa, mượn của âm phù độ bè quỷ ức.
Đốt lọn nhang trầm trời đất chứng, chút gọi là làm lễ vãn vong; Đọc bài văn tế quỉ thần soi, xin hộ đó theo đường âm chất.
Hỡi ôi! Thương thay! Có linh xin hưởng.
Hỡi ơi! Súng giặc đất rền; lòng dân trời tỏ.
Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; Một trận nghĩa đánh Tây, thân tuy mất tiếng vang như mõ.
Nhớ linh xưa: Cui cút làm ăn; Riêng lo nghèo khó.
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng, trông tin quan như trời hạn mong mưa; Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọt như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan; Ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ.
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu; Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó.
Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; Chẳng thèm chốn ngược, chốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Khá thương thay: Vốn chẳng phải quân cơ, quân vệ, theo dòng ở lính diễn binh; Chẳng qua là dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ.
Mười tám ban võ nghệ, nào đợi tập rèn; Chín chục trận binh thư, đâu chờ bày bố.
Ngoài cật có một manh áo vải, nào đợi đeo bao tấu bầu ngòi; Trong tay cầm một ngọn tầm vông, chi nài sắm dao tu nón gõ.
Hỡi ơi! Giặc cỏ bò lan; Tướng quân mắc hại.
Ngọn khói Tây bang đóng đó, cõi biên còn trống đánh sơn lâm; Bóng sao Võ Khúc về đâu, đêm thu vắng tiếng canh dinh trại.
Nhớ tướng quân xưa: Gặp thuở bình cư; Làm người chí đại.
Từ thuở ở hàng viên lữ, pháp binh trăm trận đã làu; Đến khi ra quản đồn điền, võ nghệ mấy ban cũng trải.
Lối giặc đánh, tới theo quan tổng, trường thi, mô súng, trọn mấy năm ra sức tranh tiên; Lúc cuộc tan, về huyện Tân Hoà, đắp luỹ đồn binh, giữ một góc bày lòng địch khái.
Chợt thấy cánh buồm lai sứ, việc giảng hoà những tưởng rằng xong; Đã đành tấm giấy tựu phong, phận thần tử há đâu dám cãi.
Bởi lòng chúng chẳng nghe thiên tử chiếu, đón ngăn mấy dặm mã tiền; Theo bụng dân phải chịu tướng quân phù, gánh vác một vai khổn ngoại.
Gồm ba tỉnh dựng cờ phấn nghĩa, sĩ phu lắm kẻ xui theo; Tóm muôn dân gầy sổ mộ binh, luật lệnh mấy ai dám trái.
Văn thì nhờ tham biện, thương biện, giúp các cơ bàn bạc nhung công; Võ thì dùng tổng binh, đốc binh, coi các đạo sửa sang khí giái.
Khá thương ôi! Tiền vàng ơn chúa, trót đã rỡ ràng; An bạc mưu binh, nào từng trễ nải.
Chí lăm dốc cờ xuê lộ bố, chói sắc giữa trào; Ai muốn đem gươm báu Can Tương chôn hơi ngoài ải.
Há chẳng thấy: Sức giặc Lang Sa; Nhiều phương quỷ quái.
Giăng dưới nước tàu đồng tàu sắt, súng nổ quá bắp rang; Kéo trên bờ ma ní, ma tà, đạn bắn như mưa vãi.
Dầu những đại đồn thuở trước, cũng khó toan đè trứng nghìn cân; Huống chi cô luỹ ngày nay, đâu dám chắc treo mành một giải.
Nhưng vậy mà: Vì nước tấm thân đã nấy, còn mất cũng cam; Giúp đời cái nghĩa đáng làm, nên hư nào nại.
Rạch Lá, Gò Công mấy trận, người thấy đã kinh; Cửa Khâu, Trại Cá khắp nơi, ai nghe chẳng hãi.
Nào nhọc sức họ tào biên sổ, lương tiền nhà ruộng, cho một câu háo nghĩa lạc quyên; Nào nhọc quan võ khố bình cân, thuốc đạn ghe buôn, quyền bốn chữ giao thương đạo tải.
Núi đất nửa năm ngăn giặc, nào thành đồng luỹ sắt các nơi; Giáo tre ngàn dặm đánh Tây, là ngựa giáp xe nhung mấy cái.
Ôi! Chí dốc đem về non nước cũ, ghe phen hoạn nạn, cây thương phá lỗ chưa lìa; Nào hay trở lại cảnh quê xưa, nhắm mắt lâm chung, tấm bảng phong thần vội quải.
Chạnh lòng tướng sĩ, thương quan tướng, nhắc quan tướng, chiu chít như gà; Bậc trí, nhân dân, giận thằng tà, mắng thằng tà, om sòm như nhái.
Ôi! Sự thế hỡi bên Hồ bên Hán, bao giờ về một mối xa thư? Phong cương còn nửa Tống nửa Liêu, đâu nỡ hại một tay tướng soái.
Nào phải kẻ tán sư đầu giặc, mà để nhục miếu đường; Nào phải người kiểu chiếu đánh phiên, mà gây thù biên tái.
Hoặc là chuộng một lời hoà nghị, giận nam phiên phải bắt Nhạc Phi về; Hoặc là do trăm họ hoành la, hờn U địa chẳng cho Dương Nghiệp lại.
Vì ai khiến dưa chia khăn xé, nhìn giang san ba tỉnh luống thêm buồn; Biết thuở nào cờ phất trống rung, hỡi nhật nguyệt hai vầng sao chẳng đoái.
Còn chi nữa! Cõi cô thế riêng than người khóc tượng, nhắm mắt rồi, may rủi một trường không; Thôi đã đành! Bóng tà dương gấm ghé kẻ day đòng, quày gót lại, hơn thua trăm trận bãi.
Ôi! Làm ra cớ ấy, tạo hoá ghét nhau chi? Nhắc tới đoạn nào, anh hùng rơi luỵ mãi.
Cuộc trung nghĩa hai năm làm đại tướng, nhọc nhằn vì nước, nào hờn tiếng thị tiếng phi; Cõi yên hà một chức chịu lãnh binh, lây lất theo thời, chưa chắc đâu thành đâu bại!
Khóc là khóc nước nhà cơn bấn loạn, hôm mai vắng chúa, thua buồn nhiều nỗi khúc nôi; Than là than bờ cõi lúc qua phân, ngày tháng trông vua, ngơ ngẩn một phương tớ dại.
Tướng quân còn đó, các nơi đạo tặc thảy kiêng dè; Tướng quân mất rồi, mấy chỗ nghĩa binh thêm bái xái.
Nào đã đặng mấy hồi nơi thích lý, màn hùm che mặt rằng xuê; Thà chẳng may một giấc chốn trường sa, da ngựa bọc thây mới phải.
Ôi! Trời Bến Nghé mây mưa sùi sụt, thương đấng anh hùng gặp lúc gian truân; Đất Gò Công cây cỏ ủ ê, cám niềm thần tử hết lòng trung ái.
Xưa còn làm tướng, dốc rạng giồi hai chữ bình Tây; Nay thác theo thần, nên dâng hộ một câu phúc thái.
Chín đời còn thấy vận Cao hoàng, Mặt mũi đâu mà vội dở dang. Dưới suối há ngờ Lưu Cao Đế, Trong thù nào có Lã ma vương. Tranh tranh Hán thất gương còn để, Phủ việt Xuân thu tội ắt mang. Muôn một cũng liều thân với nước, Cớ sao mà chịu ấn nương nương.
Trải xem thường chuộng báo thi quy, Nồng nực mùi hương chúa Phục Hy. Tám quẻ bố ra đường bí yếu, Sáu hào xây để máy u vi. Kiết hung muôn việc vài lời đoán, Thời vận nghìn năm một lẽ suy. Bày vẽ khắp trời đường hoạ phúc, Nào con mắt tục mấy người tri
Bài Thơ: Chạy Giặc (Nguyễn Đình Chiểu
Có những tác phẩm văn chương bất tử khi nó trở thành chứng nhân lịch sử, nó gắn liền với nỗi vui, buồn của một dân tộc. Bài thơ Chạy giặc là một bài thơ mang ý nghĩa như vậy.
Năm 1859, thực dân Pháp tấn công thành Gia Định. Trước hoạ xâm lăng, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ Chạy giặc. Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, phản ánh nỗi đau thương của dân tộc, căm thù lên án tội ác quân Pháp xâm lược và thể hiện lòng thương xót nhân dân:
Hai câu đề nói lên một cục diện bi thảm của đất nước ta hồi bấy giờ. Giặc Pháp nổ súng đánh chiếm thành Gia Định. Trận đánh diễn ra như “một bàn cờ thế” phút chốc thay đổi bất ngờ “phút sa tay”. Thành Gia Định thất thủ, Đổng Nai, Bến Nghé rơi vào tay giặc. Vần thơ cất lên như một lời than:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,Một bàn cờ thế phút sa tay.
Các từ ngữ: “vừa nghe tiếng súng Tây” “phút sa tay” làm nổi bật thời gian, sự việc diễn ra bất ngờ, nhanh chóng và nói lên nỗi kinh hoàng của nhà thơ, của nhân dân khi thành Gia Định bị giặc Tây nổ súng đánh chiếm. “Một bàn cờ thế” là một ẩn dụ, cách nói ước lệ, hàm súc về một cục diện chiến trường, một tình thế chiến tranh hồi ấy (1859).
Hai câu thực 3,4 tả cảnh chạy loạn, chạy giặc trong nỗi kinh hoàng của nhân dân. Các từ ngữ: “bỏ nhà”, “lơ xơ chạy”, “mất ổ”, “dáo dát bay” đặc tả sự tan nát, hoảng sợ, hãi hùng. Nhà thơ lấy thế giới con người là “lũ trẻ”, lấy thế giới thiên nhiên là “lũ chim”, hai hình ảnh ấy điển hình cho nỗi đau thương của nhân dân trước thảm hoạ đất nước quê hương bị xâm lược:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,Mất ổ đàn chim dáo dát bay.
Phép đảo ngữ đặt vị ngữ trước chủ ngữ để nhấn ý các chữ “bỏ nhà” và “mất ổ” tạo nên nỗi ám ảnh bi thương về cảnh chạy giặc của dân lành.
Hai câu luận 5,6 đối nhau làm hiện lên hai cảnh tang thương điêu tàn nơi Bến Nghé và Đồng Nai. Gần 200 năm về trước, Bến Nghé đã là cảnh đô hội, sầm uất, trên bến dưới thuyền buôn bán tấp nập. Đồng Nai là vựa lúa miền Nam. Thế mà chỉ trong chốc lát đã bị giặc Pháp bắn giết, đốt phá, cướp bốc rất dã man. Tài sản của nhân dân đã bị chúng cướp phá sạch sành sanh “tan bọt nước”. Nhà cửa, phố phường, làng xóm của đồng bào ta bị quân xâm lược đốt phá tan hoang. Lửa khói ngút trờỉi bao phủ một vùng rộng lớn “nhuốm màu mây”. Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Chỉ bằng hai hình ảnh so sánh rất chọn lọc, đối nhau: “của tiền tan bọt nước”, “tranh ngói nhuốm màu mây” đã căm thù lên án tội ác tày trời của quân xâm lược. Nỗi đau đớn và căm thù chứa đầy vần thơ:
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Tội ác quân giặc không thể nào kể xiết! Nhà thơ tưởng như cất lời than uất hận trước tội ác ghê tởm của giặc Pháp:
Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, làm cho bốn phía mây đen;Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu một phường con đỏ(Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc)
Sau khi hạ thành Gia Định, giặc Pháp đánh chiếm 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ. Cả một vùng rộng lớn của đất nước ta chìm trong máu lửa, Phan Văn Trị, người bạn thân của Nguyễn Đình Chiểu đã căm giận viết khi nghe tiếng kèn giặc:
Tò te kèn thổi tiếng năm ba,Nghe lọt vào tai dọ xót xa.Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói,Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa…(Cảm tác)
Hai câu kết, cảm xúc nghẹn lại bỗng trào lên, biểu lộ một tâm trạng đau đớn, lo âu. Lo âu cho tính mạng và tài sản của nhân dân ta đang bị giặc Pháp bắn giết, cướp phá dã man. Lo âu cho vận mệnh đen tối của đất nước. Câu hỏi tu từ thể hiện tình thương xót nhân dân đau khổ trước hoạ xâm lăng:
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,Nỡ để dân đen mắc nạn này?
Chạy giặc là bài ca yêu nước thể hiện sâu sắc lòng căm thù giặc Phấp và nói lên tình thương xót nhân dân trước hoạ xâm lặng. Những cảnh mà nhà thơ nghe thấy (tiếng súng Tây), nhìn thấy, cảm thấy lũ trẻ lơ xơ chạy, đàn chim dáo dát bay, của tiền tan bọt nước, tranh ngói nhuốm màu mây) là những chi tiết nghệ thuật rất hiện thực mang giá trị lịch sử sâu sắc. Bài thơ Chạy giặc là một chứng tích về tội ác giặc Pháp trong những ngày tháng đầu chúng xâm lược đất nước ta.
Ngôn ngữ hàm súc, nghiêm trang, chứa chan tình cảm, bài thơ thể hiện tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu. Nó cho thấy tính mẫn cảm chính trị của nhà thơ yêu nước “đám mấy thằng gian bút chẳng tà”. Với ông, “thơ là súng là gươm”. ( Đọc thơ Đồ Chiểu – Lê Anh Xuân)
Top Những Bài Thơ Về Quê Hương Đặc Sắc Nhất
Quê hương – hai từ mỗi lần thốt lên nghe sao mà thân thương, gắn bó đến vậy. Ai cũng phải có quê hương, không những một mà còn có hai, hoặc ba những nơi đi qua mà gắn với nhiều kỷ niệm thật khó lòng để quên. Và thơ về quê hương cũng từ đó mà ra đời, là những nỗi lòng người yêu quê tha thiết muốn nhờ những vần thơ nói hộ tiếng lòng. Mời bạn đọc cũng chúng tôi thưởng thức những bài thơ quê hương hay nhất.
Văn học là nơi nuôi dưỡng tâm hồn chúng ta, rót vào trong tâm hồn chúng ta những cảm xúc yêu đời nhất, chân thực nhất. Đó cũng chính là nơi bức tranh cuộc sống hiện ra trước mắt với từng chi tiết gần gũi và thân quen. Tất nhiên ở đó cũng không thể thiếu thơ về quê hương hay nhất đã được chắt lọc qua hàng trăm nghìn tác phẩm để giới thiệu đến bạn yêu thơ, yêu văn cả nước, để những học sinh còn ngồi trên ghế nhà trường có được cái nhìn bao quát nhất.
Tiêu biểu phải kể đến Tràng giang của Huy Cận
Con thuyền xuôi mái nước song song. Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả; Củi một cành khô lạc mấy dòng. Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu, Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều Nắng xuống, trời lên sâu chót vót; Sông dài, trời rộng, bến cô liêu. Bèo giạt về đâu, hàng nối hàng; Mênh mông không một chuyến đò ngang. Không cầu gợi chút niềm thân mật, Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng. Lớp lớp mây cao đùn núi bạc, Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa. Lòng quê dợn dợn vời con nước, Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Tràng giang – tức là con sông dài. Đó không chỉ là con sông quê hương uốn lượn bao bọc cả vùng quê bình yên mà còn là con sông tâm tưởng của tác giả. Đọc lướt qua bài thơ chúng ta cảm nhận được âm điều đều đều trầm buồn đích thực là của người xa quê đang nhớ về quê hương.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng:
Nhớ con sông quê hương của Tế Hanh khá dài nên chúng tôi xin trích đoạn phần đầu của bài thơ. Bạn yêu thơ, yêu thích bài thờ về quê hương có thể tìm đọc ở nhiều kênh khác nhau. Cái hay độc đáo của bài thơ này nằm ở ngay 4 câu thơ đầu mà hầu như ai ai cũng thuộc làu làu trong đầu.
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn Cánh cò bay lả rập rờn Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều Quê hương biết mấy thân yêu Bao nhiêu đời đã chịu nhiều thương đau Mặt người vất vả in sâu Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn Đất nghèo nuôi những anh hùng Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên Đạp quân thù xuống đất đen Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa Việt Nam đất nắng chan hoà Hoa thơm quả ngọt bốn mùa trời xanh Mắt đen cô gái long lanh Yêu ai yêu trọn tấm tình thuỷ chung Đất trăm nghề của trăm vùng Khách phương xa tới lạ lùng tìm xem Tay người như có phép tiên Trên tre lá cũng dệt nghìn bài thơ Nước bâng khuâng những chuyến đò Đêm đêm còn vọng câu hò Trương Chi Đói nghèo nên phải chia ly Xót xa lòng kẻ rời quê lên đường Ta đi ta nhớ núi rừng Ta đi ta nhớ dòng sông vỗ bờ Nhớ đồng ruộng, nhớ khoai ngô Bũa cơm rau muống quả cà giòn tan …
Nếu như hai bài thơ trước thơ về quê hương cụ thể về một vùng quê của tác giả thì trong Việt Nam quê hương ta là quê hương của hàng triệu trái tim người con đất Việt. Nguyễn Đình Thi nổi tiếng là một nhà thơ luôn có những tác phẩm mang tầm vĩ mô như vậy. Bài thơ bao quát từ thời dựng nước giữ nước, thời con khó khăn vất vả mà không bạn trẻ nào thế hệ hiện đại này hiểu được nhưng vẫn đi sâu vào trong tâm hồn chúng ta.
Một bức tranh về đất nước hiện ra với hình ảnh Biển lúa, đàn cò trắng chao nghiêng rập rờn, dưới những đám mây mờ bị che phủ bởi đỉnh núi. Khung cảnh rất yên bình, thơ mộng đầy màu sắc. Để có được cuộc sống bình yên ấy thì cả dân tộc đã phải đồng lòng đứng lên bảo vệ, hi sinh không chịu lùi bước trước bạo tàn mà “chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên”. Để rồi, dù ai có đi xa cũng phải nhớ và tự hào:
1001 Bài Thơ Về Tà Áo Dài Việt Nam Hay Và Đặc Sắc Nhất
Chùm thơ viết về áo dài trắng gợi những ký ức học trò ngây ngô
Tuổi học trò gắn liền với những tà áo dài trắng và đó cũng chính là lý do những bài thơ về áo dài trắng lại phổ biến đến vậy. Đó là một thời hồn nhiên đầy ngây ngô với những rung động đầu đời. Nếu hoa phượng tượng trưng cho mái trường, vào khoảnh khắc chia xa thì với áo dài trắng càng làm con người ta thêm phần ngẩn ngơ. Bên cạnh đó màu áo này cũng chính là màu tượng trưng cho vẻ đẹp của người thiếu nữ.
Thời áo trắng – Thiên Nhất Phương
Này cô bé còn mơ thời áo trắng Khúc khích cười sao lại ngó bâng quơ Để trời đêm chỉ toàn ánh sao mờ Hồn tập tễnh làm thơ thời mới lớn
Này cô bé có bước chân chim sáo Đang vui cười sao bỗng bặt im ngay Để đưòng về sao nhiều lá me bay Tà áo trắng như là bao cánh bướm
Này cô bé mái tóc dài tha thướt Kẹp bồng bềnh trói buộc mảnh tình si Đang cười vui sao bỗng chớp hàng mi Hồn phiêu bạc bỗng thành mây viễn xứ
Này cô nhỏ… sao lại nghiêng vành nón Để vô tình mây trắng vẩn vơ bay Giận ai đâu… sao lại lỡ thở dài Thơ viết mãi vẫn chưa vào cung bậc
Này cô nhỏ… có còn hay hờn dỗi Tóc buông dài vương sợi nhớ tương tư…
Chút tình đầu – Đỗ Trung Quân
Những chiếc giỏ xe chở đầy hoa phượng Em chở mùa hè của tôi đi đâu ? Chùm phượng vĩ em cầm là tuổi tôi mười tám Thuở chẳng ai hay thầm lặng – mối tình đầu
Mối tình đầu của tôi có gì ? Chỉ một cơn mưa bay ngoài cửa lớp Lá áo người trắng cả giấc ngủ mê Lá bài thơ cứ còn hoài trong cặp Giữa giờ chơi mang đến lại…. mang về.
Mối tình đầu của tôi là anh chàng tội nghiệp Mùa hạ leo cổng trường khắc nỗi nhớ vào cây Người con gái mùa sau biết có còn gặp lại Ngày khai trường áo lụa gió thu bay… Mối tình đầu của tôi có gì ? Chỉ một cây đàn nhỏ Rất vu vơ nhờ bài hát nói giùm Ai cũng cũng hiểu – chỉ một người không hiểu Nên có một gã khờ ngọng nghịu mãi… thành câm.
Những chiếc giỏ xe trưa nay chở đầy hoa phượng Em hái mùa hè trên cây Chở kỷ niệm về nhà Em chở mùa hè đi qua còn tôi đứng lại Nhớ ngẩn người tà áo lụa nào xa.
Có những nỗi buồn tưởng đã ngủ yên
Có những nỗi buồn tưởng đã ngủ yên Nhưng cứ thao thức mãi trong tiềm thức Bài thơ xưa bỏ quên trong kí ức Phải chăng là nỗi buồn tuổi hai mươi
Có chút ngây thơ trong những tiếng cười Tình yêu không là suy tính thiệt hơn Yêu thật nhiều mà vẫn thấy cô đơn Trang giấy trắng viết đầy tên nỗi nhớ
Có những bài thơ nửa chừng dang dở Sao vẫn còn ảo vọng tuổi hai mươi Giữ trong tim giọng nói tiếng ai cười Như bảo vật là niềm đau chôn giấu
Có những muộn phiền cứ mãi gọi tên Khi tất cả chỉ còn là trống vắng Bài thơ xưa của một thời áo trắng Bây giờ đọc lại thấy mình ngây ngô
Một thời áo trắng – Nguyễn Ngọc
Thời áo trắng tháng ngày xưa cũ Mộng trong mơ ấp ủ học đường Vào thu lá úa dặm trường Thơ ngây xa thẳm má hường nhạt phai
Còn đâu nữa áo dài ngày trước Nhặt lá vàng lướt thướt u buồn Để hồn e ấp mây tuôn Một thời ngây dại sao luôn nhớ hoài
Nữ sinh hỡi ngồi ngoài sông đó Chờ đợi ai đến ngỏ lời yêu Đêm về uớc mộng thật nhiều Mai vào lớp học còn phiêu chữ tình
Thêm vần thơ thành quả bài này Vài câu song thất tỏ bày Chung vui bạn hữu sáng ngày bên nhau
Thế giới ảo trước sau như một Mối chân tình thắt cột tim yêu Mộng về thơ tả đôi điều Hình thơ gói trọn phiêu diêu uớc nguyền…
Thời thơ dại trinh nguyên dáng ngọc Biết bao là lửa bốc mộng mơ Bây giờ xưa cũ xa mờ Nỗi niềm ký ức vào thơ nhớ về…
Xa lắc mùa thu – Trương Nam Hương
Em không đến mùa thu năm ấy nữa Em không đến trường cả mùa thu năm sau Chiếc lá rụng xuống hoàng hôn xẹt lửa Theo mùa thu tiếc nuối chảy qua cầu
Tháng năm buồn ghềnh thác vực sâu Câu thơ chở chòng chành tiếng khóc Tôi uống cạn dòng sông trong vốc tay kí ức Nghe mùa thu xa lắc ngấm vô lòng
Biết em còn đến lớp với tôi không Lo phấp phỏng tháng ngày trôi vội vã Nắng kí thác đời mình trên sắc lá Mới hiểu mùa thu đánh tráo tuổi xanh rồi
Tôi quá tuổi học trò từ ấy em ơi Chiều nay trước cổng trường rươm rướm mắt Chưa kịp nhặt mùa thu vừa chạm đất Con gái tôi tan lớp giục tôi về.
Một thời áo trắng – Trần Ánh Dương
Trong buổi chiều nhạt nắng Nhẹ nhẹ gió heo may Cuốn trôi từng chiếc lá Mùa thu trong mắt nai
Em dịu dàng tha thướt Thời áo trắng mộng mơ Mắt long lanh trong biếc Là cả một trời thơ
Lời tỏ tình sao khó Nói mãi chẳng thành câu Len lén nhìn sang đó Vô tình mắt chạm nhau
Một thời ta nhút nhát Một thời yêu ngu ngơ Lần đầu tiên say đắm Lặng buồn đêm bơ vơ…
Áo trắng ngày xưa – Minh Tường
Đêm vắng lang thang tìm ký ức Phố buồn trở giấc thức cùng ai Gõ tên trường cũ tôi tìm kiếm Chút kỷ niệm buồn dẫu đã phai
Trường cũ hiện về trên cửa sổ Phượng hồng, áo trắng vẫn đầy sân Bóng ai thấp thoáng như thầy cũ Nỗi nhớ ngày xưa bỗng thật gần
Mái tóc của thầy giờ đã bạc Sợi còn, sợi mất, sợi cô đơn Ngày tôi rời lớp thầy còn trẻ Giờ bóng thầy đang ở cuối đường
Gió đã theo về tận chốn xa Thời gian phong kín tháng năm qua Mái trường rêu phủ màu hoang phế Tôi biết tìm đâu tuổi ngọc ngà..?
Áo trắng còn thương tuổi học trò Đường xưa in dấu vết ngây thơ Bao năm xa cách còn chưa nhạt Màu áo vương đầy tuổi mộng mơ.
Áo trắng học trò
Áo trắng học trò tuổi trắng trong Thêu hoa dệt gấm ngát hương lòng Em về qua phố chiều phai nắng Tóc gió nghiêng che má ửng hồng
Áo trắng em bay giữa phố phường Lòng em chưa để một tơ vương Hoa rơi từng cánh trên đường vắng Hoa tỏa hương hay em tỏa hương?
Áo trắng em bay giữa nắng chiều Lòng em đã vướng bận thương yêu Sóng tình vùi lấp con tim nhỏ Đã ngẩn ngơ hồn dệt mộng yêu?
Tà áo em bay cuối nẻo đường Khuất rồi lối tắt lấp người thương Đường đời đâu dễ duyên tương ngộ Một phút xao lòng mãi vấn vương.
Một thời áo trắng đã xa
Mười sáu tuổi thuở hồn nhiên trong sáng Áo trắng ngần thêm duyên dáng ngây thơ Ngày hai buổi đến trường…những mộng mơ Tương lai đã mở ra chờ trước mặt
Ngày xưa đó…nhớ về càng se thắt Tiếng ve ngân, lòng̣ ai cắt nghẹn ngào Ôi mái trường bạn bè cũ…chốn nao Vắng xa để mỗi Hè xao xuyến dạ
Tà áo trắng, đơn sơ…mà đẹp lạ Tuổi học trò là tất cả trong tôi Mãi trong tim dù biết đã xa vời Vẫn luôn nhớ dẫu đường đời rẽ hướng
Hè lại đến bùi ngùi trông cánh phượng Kỷ niệm về hồn mộng tưởng đắm say Ước mơ tàn theo năm tháng đổi thay Tiếng ve khóc nỉ non hay lệ đổ.
Áo trắng học trò
Tháng ba về tung bay tà áo trắng Gửi tâm tình theo vạt nắng ban mai Học trò ơi nay đẹp lắm trang đài Cùng vẫy gọi đón tương lai rộng mở
Ta đi trong một chiều xuân niềm nở Gửi tình yêu vào nỗi nhớ mông lung Ngày tan trường chúng mình bước đi cùng Giấc mơ đẹp nơi tương phùng bạn hữu
Nếu rời xa bạn ơi đừng nũng nịu Giờ chia tay gửi trìu mến vào tim Để nhớ nhung cho ta phải đi tìm Tà áo trắng nay lim dim niềm nhớ
Học trò ơi nay sao không bày tỏ Tấm lòng trân có lẽ nhớ khôn nguôi Ngày chia tay cũng sẽ sắp đến rồi Rất đắm đuối áo tinh khôi một thuở.
Thời áo trắng
Thuở xưa áo trắng mộng mơ Bên nhau trao gửi vần thơ học trò Cùng chung trên một chuyến đò Bến sông năm ấy câu hò mênh mang
Tuổi thần tiên thật mơ màng Để bao nỗi nhớ mênh mang bên cầu Cao cao khung cửa muôn màu Quên làm sao được tình đầu thuở xưa
Hôm nào em đứng dưới mưa Mãi chờ mãi đợi ai đưa mình về Trường kia lối cũ câu thề Một trời phượng nở đường quê thuở nào
Một thời thơ mộng biết bao Nam thanh nữ tú ngọt ngào dễ thương Phượng ơi cháy đỏ sân trường Cùng nhau đi tiếp con đường tương lai.
Một thời áo trắng
Gặp lại em ngược hướng giữa dòng đời. Anh chợt nhớ về một thời áo trắng. Mái tóc dài nụ cười em toả nắng. Nhớ ánh mắt mình thầm lặng trao nhau.
Khi chia tay chưa kịp nói một câu. Mối tình khờ anh chôn sâu trong dạ. Nay tình cờ gặp nhau nơi xứ lạ. Ký ức quay về nhớ quá không quên.
Thuở mười lăm ta chung sách chung đèn. Vui tới trường ngồi kề bên chung lớp. Vai sánh vai trên con đường bóng rợp. Ngắm chim chuyền cành ca hót líu lo.
Mãi không quên ngày ấy thuở học trò. Ước một lần cho tuổi thơ quay lại. Chưa chia ly để mình bên nhau mãi. Duyên thắm màu như hoa cải vàng bông.
Em chưa lên đò ngày ấy sang sông. Anh là chàng trai trắng trong chưa vợ. Trời se tơ cho mình nên duyên nợ. Tình thắm màu như hoa nở mùa xuân.
Tuổi học trò
Ai cũng có tình dại khờ để nhớ Tuổi học trò còn đó những ước mơ Nhặt phượng hồng ghép vội mấy vần thơ Ngơ ngẩn đợi sau những giờ tan lớp
Hàng phượng vĩ nghiêng mình che bóng rợp Tiếng ve ngân bản hợp xướng tình đầu Lời tỏ tình lưu trong vở từ lâu Không dám trao ướt lem màu mực tím
Gói tâm tư ôm nỗi niềm phong kín Nhớ thương thầm tà áo trắng thơ ngây Mối tình đầu đành trôi theo gió mây Dòng lưu bút còn đây em nào thấy
Bao năm qua theo dòng đời xô đẩy Phút ban đầu đâu dễ mấy ai quên Cây phượng già vẫn còn khắc hàng tên Tuổi học trò êm đềm còn đâu nữa..!
Chùm thơ viết về áo dài Huế với màu tím mộng mơ và trữ tình
Người con gái Huế được đặc trưng bởi màu áo tím, và đây cũng chính là nguồn cảm hứng để viết lến các bài thơ về áo dài Huế. Ở đó ta cảm nhận được một cái gì đó rất Huế, rất mộng mơ. Một mảnh đất với sự trữ tình, thủy chung son sắt. Chính những bài thơ về áo dài Huế đã làm con người ta thêm yêu và thêm quý mảnh đất này.
Áo dài ơi
Em như cánh bướm dễ thương Áo dài tím Huế vấn vương gợi tình Bóng hồng lưu luyến lung linh Dịu dàng tha thướt đẹp xinh ngàn đời
Tung bay trước gió buông lơi Yểu điệu tà áo em ơi ngỡ ngàng Cõi yêu hồn phách bao chàng Thẹn thùng duyên dáng che ngang má hồng
Sợi tinh khiết trải mềm cong Say tình mộng ảo êm trong sắc màu Trinh nguyên ngây ngất xuyến xao Nuốt từng cảm xúc tuôn trào áng thơ
Hồn tôi thi sĩ mộng mơ Tinh khôi áo trắng tuổi thơ học trò Vô tư trong sáng chẳng lo Qua rồi cái tuổi thập thò chớm yêu
Vấn vương chưa dám lời nhiều Tình xưa lưu giữ bao điều ngẩn ngơ Hè về hồn mãi thẩn thờ Tiếng ve nức nở vu vơ nhớ hoài …
Tím Huế
Anh tìm Huế nơi nắng chiều lịm tắt Nắng chiều tà hiu hắt cố đô xưa Dòng Hương xanh màu mắt em kỷ niệm Anh tìm Huế của những buổi chiều mưa
Tà áo tím, trót thương tà áo tím Nón ai nghiêng hờ hững đứng giữa dòng Mắt lệ buồn rơi mấy nhịp cầu cong Hơn đôi lần cố đô sầu môi mắt
Anh về Huế tìm dáng em không thấy Thẫn thờ tìm, thờ thẫn, thuở em xinh Ai quên ai đất Thần Kinh rêu phủ Khói thuốc anh hư ảo tựa dáng hình
Ơi áo tím, ơi nón nghiêng chiều nắng Hỡi đông phong, hỡi héo hắt thu sầu Này Tràng Tiền, này tiếng chuông Thiên Mụ Em gái cố đô đã lạc về đâu?
Em là Huế hay Huế anh trong ấy Hương Giang trôi hay làn tóc em anh Thôi tiễn biệt rồi ngóng chờ trong Huế Anh vẫn tìm em của những ngày xanh…
Rất Huế
Giữ chút gì rất Huế đi em Nét duyên là trời đất giao hoà Dẫu xa một thời anh gặp lại Vẫn được nhìn em say lá hoa
Giữ chút gì rất Huế hiền ngoan Thề nguyện ai có cắt tóc dài Làm sao gió thổi cho bay tóc Và suốt mùa đông lạnh se vai
Giữ chút gì rất Huế mặn mà Dạ thưa ngọt lịm ai mê say Em đi gót nhẹ xanh hồn cỏ Và hơi thở mềm sương khói bay
Giữ chút gì rất Huế trang đài Nón nghiêng bóng nắng dáng thơ ngây Gặp anh, nón hỡi đừng nghiêng xuống Cho anh trông mắt ngọc mày ngài
Giữ chút gì rất Huế dịu dàng Áo trắng hai tà chắp cánh thơ Em như lụa mỏng bay trong phố Một chiều sương trắng ngỡ như mơ
Dẫu em rất Huế tự bao giờ Đừng để lòng như cung điện xưa Đừng cho anh suốt đời đứng đợi Trước cấm thành gọi chẳng ai thưa.
Màu tím Huế – Nguyễn Bính
Thôi thế là em cách biệt rồi! Đường đi mỗi bước lại xa xôi Tim tím rừng chiều, tim tím núi Tim tím chiều hôm, tim tím mai
Ban chiều tim tím nhớ mong nhau Đêm tối kìa em tím rất nhiều Anh cúi xuống hôn màu tím giấy Thư về em, tím nét thương đau
Mai mốt rồi đây lầm cát bụi Anh lại đường xa trải kiếp người Tim tím rừng chiều, tim tím núi Chiều hôm nhiều tím thế em ơi!
Theo Anh về Huế
Em anh ơi? Theo anh về xứ Huế! Xứ bao năm mắt quế với môi trầm Đóa sen hồng đẹp dưới đợt mưa râm Hàng phượng vỹ dầm mình qua mùa lũ
Huế chờ em nghiêng tà áo thờ ơ Như Quỳnh lưu khoe sắc dưới trăng mờ Tiếng duyên dáng của nàng thơ đất Huế
Huế vẫn thế, bao đời nay vẫn thế Hương Giang trôi, còn trôi mãi ngàn năm Nhịp Tràng Tiền đâu còn quá xa xăm? Em anh ơi, em có về xứ Huế?!
Huế mờ sương
Có một Huế mờ sương trong kỷ niệm Nước sông Hương xanh tận đáy chân trời Một tiếng dạ! Thoáng nghe lòng xao xuyến Tà áo dài tha thướt ướt hoàng hôn.
Có một Huế dịu dàng trầm mặc như tranh Sao tiếng sóng ở trong lòng cứ vỗ? Nếu không có dòng Hương, thuyền em qua Bạch Hổ Xuôi Trường Tiền còn đâu nữa Huế thơ?
Huế của em có Núi Ngự, Nam Giao Những thành quách, đài rêu phong lịch sử Làn mây bạc bay ngang trời Thượng Tứ Biêng biếc dòng Hương xanh điệu mái nhì.
Nhưng ngàn đời Huế vẫn cứ mộng mơ Vẫn còn mãi trong tôi, một tình yêu dịu ngọt Có một Huế nắng vàng như mật rót Một trời nắng miền Trung đến Huế cũng xiêu lòng.
Tím Huế – Ngọc Cẩn
Đã có lần thăm xứ huế mộng mơ Mảnh đất thân thương còn nhớ hôm nào Cô gái huế vẫn thướt tha tà áo Thắm môi cười một màu tím thủy chung
Bên dòng sông hương những bước chập chùng Thuyền giấy gấp thả trôi theo dòng nước Tà áo tím dấu chân son rảo bước Nét thanh tao nhẹ gót, mắt, môi cười
Nón bài thơ.. nghiêng che nụ cười tươi Và giọng nói âm trầm sâu lắng là Màu tím huế . ngàn xưa còn để lại Đến bây giờ .và mãi mãi mai sau
Ta áo kia luôn giữ thắm một màu Tím của huế ngàn sau luôn son sắc Như tình ai kết tơ lòng bền chặt Thoáng bồi hồi mơ mộng với huế yêu.
Bạn đang xem bài viết Nhà Thơ Nguyễn Đình Chiểu Và Những Bài Thơ Đặc Sắc Nhất Phần Cuối trên website Boxxyno.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!