Cập nhật thông tin chi tiết về Hòa Hợp Dân Tộc Theo Tinh Thần Cố Thủ Tướng Chính Phủ Võ Văn Kiệt mới nhất trên website Boxxyno.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Kỷ niệm 44 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4):
30-4 năm nay đã tròn 44 năm đất nước thống nhất. 44 năm đã qua, lịch sử đã đủ độ dài cần thiết để các thế hệ hôm nay nhìn lại cuộc chiến kỳ lạ và đau thương của dân tộc. Cột mốc 30-4 có lẽ vì vậy sẽ không bao giờ phai mờ trong tâm khảm của mỗi người dân đất Việt, bởi lẽ đó là ngày non sông thu về một mối, là ngày mà sự chia ly của biết bao gia đình người Việt được hàn gắn và đoàn tụ.
44 năm đã qua, lại nhớ về tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc của cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt.
Cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt
TIN LIÊN QUAN
Nhớ về ngày 30-4
Nguyên Phó chủ tịch nước Trương Mỹ Hoa: Hỏi tuổi, tuổi khuyên nên dừng lại Hỏi lòng, lòng bảo: Cứ xung phong!”
Vững bước đi lên
Vinh dự có mặt trong thời khắc lịch sử
1. Sinh thời, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt luôn đau đáu với sự nghiệp hòa hợp dân tộc. Ông đã làm hết sức mình có thể để hàn gắn vết thương chiến tranh, để hòa hợp, hòa giải dân tộc.
Có lần khi trả lời phỏng vấn, ông Võ Văn Kiệt đã khẳng định: ‘’Kẻ thù của Việt Nam là Pháp trước đây, kẻ thù Việt Nam là Mỹ sau này, kẻ thù Việt Nam là Trung Quốc đánh biên giới phía Bắc, chúng ta cũng khép lại quá khứ được, thì tại sao chúng ta lại không khép lại quá khứ ấy mà lại cứ đố kỵ lẫn nhau”.
Chúng ta đều biết rằng, năm 1966, có một cuộc thảm sát của lính Mỹ trên sông Sài Gòn, trong đó lính Mỹ bắn chìm tàu Thuận Phong, trên con tàu định mệnh ấy, vợ, con trai và con gái của ông Võ Văn Kiệt đã bị giết hại và tới nay vẫn chưa tìm được hài cốt.
Thấu hiểu nỗi đau từ chính người trong cuộc nên ông hiểu rằng “khép lại” là một việc không hề dễ dàng. Thế nhưng, ông cho rằng: “Không gì là không làm được! Hòa hiếu, khoan dung” là những truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Người Việt thường chỉ kháng chiến khi có kẻ thù từ bên ngoài. Sau 30 năm qua, tôi nghĩ mọi người Việt Nam chúng ta, cả đôi bên đều nhận thấy khi không còn sự can thiệp từ bên ngoài nữa, chúng ta có thể trở về bên nhau, cùng nhau xây dựng. Và Việt Nam sẽ thêm phát triển khi mọi người Việt dù ở đâu cũng đều ở trong một cộng đồng hòa hợp”.
2. Trong 30 năm ròng rã chiến tranh ấy, kẻ thù đã gây ra không biết bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân tộc này. Thế nhưng, những đau thương về da thịt có thể ở nhiều nơi đã lành, chỉ có những nỗi đau trong lòng vẫn còn đâu đó. Ngay trong gia đình ông Võ Văn Kiệt cũng có những người cháu ở phía quân đội Sài Gòn.
Ông Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn có người em ruột là Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông Trần Văn Hương, Tổng thống chế độ Sài Gòn có con trai là Đại úy Quân đội nhân dân Việt Nam và đã từng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ… Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình trong hồi ký của mình cho biết trên 90% gia đình ở miền Nam có cả người ở phía bên này và phía bên kia. Đó là nỗi đau quá lớn của dân tộc này.
Sau ngày 30-4, vừa xuống thang máy bay ở Sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc, nói: “Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai”. 44 năm đã trôi qua, có bao nhiêu người, nhất là những người có trách nhiệm hiểu trọn vẹn câu nói đặc biệt này của ông Lê Duẩn.
Cũng vậy, tối 2-5-1975, tại Dinh Độc Lập, trong buổi tiếp và trao trả tự do cho ông Dương Văn Minh và toàn bộ nội các cuối cùng của Sài Gòn, Thượng tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản TP.Sài Gòn – Gia Định, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 đã phát biểu rằng đây là chiến thắng của toàn dân tộc Việt, đây là niềm hãnh diện chung của tất cả nhân dân Việt Nam chúng ta.
3. 44 năm qua, chúng ta đã làm được rất nhiều chuyện để hàn gắn nỗi đau này của dân tộc. Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26-3-2004 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đều đã khẳng định “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai”.
Trong cuốn hồi ký Tổ quốc trên hết, Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh cho rằng từ chiến thắng vĩ đại mùa Xuân 1975 đã đủ độ dài cho phép chúng ta có điều kiện nhìn lại mọi sự vật, hiện tượng đã diễn ra ngày càng rõ ràng, đầy đủ, chính xác hơn. Để giải quyết đồng loạt, rộng khắp, kịp thời và thật sự tạo nên đại thắng, phải thấy rõ vai trò tiến công và nổi dậy của lực lượng tại chỗ, của lực lượng chính trị quần chúng, trong đó có cả lực lượng của những người bị bắt buộc đứng trong hàng ngũ của địch, có cả cơ sở của cách mạng nằm trong hàng ngũ địch…
Phát biểu tại Đại hội MTTQ Việt Nam lần thứ VIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc”.
Tại chương trình giao lưu nghệ thuật “Xuân quê hương 2015 – Tổ quốc vinh quang” năm 2015, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định: “Không có lý do gì để còn bất kỳ ai trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài còn định kiến, mặc cảm về quá khứ mà cản trở sự củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam”.
Đại hội lần thứ XII của Đảng một lần nữa khẳng định các quan điểm, chủ trương về đoàn kết, hòa hợp dân tộc: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia – dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước”…
Lúc sinh thời, ông Võ Văn Kiệt cho biết khi nghe ông Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn, ông và ông Năm Xuân (Mai Chí Thọ) đã “thở phào nhẹ nhõm” và cho biết rằng chỉ những ai trực tiếp có mặt ở chiến trường trong thời điểm ấy mới cảm nhận hết được giá trị của lời tuyên bố ngừng bắn này của Tổng thống Dương Văn Minh.
Chính phủ cuối cùng của chế độ Sài Gòn do ông Dương Văn Minh đứng đầu tất cả đều thuộc thành phần thứ 3. Họ không có bất cứ liên hệ gì với chính phủ Nguyễn Văn Thiệu. Cụ Nguyễn Văn Huyền, một trí thức Công giáo, bạn của luật sư Nguyễn Hữu Thọ là Phó tổng thống đặc trách hòa đàm, GS.Vũ Văn Mẫu, người đã cạo trọc đầu phản đối chính sách đàn áp tôn giáo của chế độ Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng (cả 2 vị đều có những người ruột thịt là những người đứng khác chiến tuyến); Bộ trưởng Quốc phòng là một giáo sư đại học (GS.Bùi Tường Huân); Quyền Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh là cơ sở binh vận của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; Giám đốc Nha Cảnh sát đô thành Sài Gòn là một đảng viên cộng sản (thẩm phán Triệu Quốc Mạnh); Tổng trưởng thông tin Lý Quý Chung (nhà báo Chánh Trinh) là một dân biểu đối lập của chế độ Nguyễn Văn Thiệu; các tổng, bộ trưởng, quốc vụ khanh: Dương Văn Ba, Trần Ngọc Liễng, Trần Thúc Linh, Châu Tâm Luân… đều là những người yêu nước và sau này họ đều có đóng góp xứng đáng trong chế độ mới…
Thế nhưng, vẫn còn đó không ít cá nhân người Việt ở nước ngoài vẫn chứa đầy hận thù, hậm hực, chửi bới, mạt sát Nhà nước Việt Nam. Dường như đó không thể và không phải là hành động sáng suốt trong bối cảnh hiện nay.
Đất nước đang đứng trước những thử thách, khó khăn, nguy hiểm từ bên ngoài, đây là lúc cần nhất sự đồng lòng, đoàn kết nhất trí của tất cả người Việt trong và ngoài nước…
Vũ Trung Kiên
Cố Thủ Tướng Võ Văn Kiệt: Một Biểu Tượng Của Lắng Nghe Và Hòa Giải
(Thethaovanhoa.vn) – Điêu khắc gia Phạm Văn Hạng kể rằng sinh thời cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt thường hay nhắc lại một câu như tâm niệm của lòng ông: “Nghe xuôi, nghe ngược, nghe xốn tai, nhưng vẫn phải nghe để nhận ra những điều tâm huyết”. Chính tâm niệm như vậy mà từ rất sớm (năm 1976), ông Võ Văn Kiệt đã chủ động tìm gặp giới văn nghệ sĩ, trí thức và giới tài chính, kinh tế của chế độ cũ để nghe ý kiến, mời hợp tác, làm việc.
Trong một bài phát biểu còn được trích dẫn nhiều lần, Võ Văn Kiệt từng nói: “Đất nước Việt Nam, giang sơn Việt Nam cùng mọi thành quả của nền văn hóa Việt Nam không phải của riêng ai, của một giai cấp hay đảng phái nào, mà là tài sản chung của mọi người Việt Nam, của cả dân tộc Việt Nam… Phải phát huy dân chủ cao độ, thực hành dân chủ thật sự, hòa hợp dân tộc rộng rãi. Mọi người Việt Nam không chỉ là chủ đất nước mà phải làm chủ thật sự, được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra và được thụ hưởng thành quả dân chủ”.
Một trong những trí thức “siêu nhạy cảm” mà ông Võ Văn Kiệt gặp từ sau ngày thống nhất đất nước là Giáo sư Nguyễn Xuân Oánh (1921-2003), một nhà kinh tế chuyên nghiệp, lấy bằng tiến sĩ tại ĐH Harvard năm 1954.
Trước 1975 tại Sài Gòn, ông Oánh từng là Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, Phó thủ tướng VNCH, hai lần là Quyền thủ tướng. Chính những cuộc gặp gỡ từ sớm của ông Kiệt và một vài người khác, mà ông Oánh nhanh chóng được tham gia vào việc cải cách, đổi mới chính sách ngân hàng, tài chính, đầu tư nước ngoài, kiến tạo nguồn vốn… tại Việt Nam. Ông trở thành cố vấn kinh tế cho Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh, cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt…, trở thành đại biểu Quốc hội.
Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Ảnh: Minh Đạo
Theo vài người kể lại thì câu nói “nghe xuôi, nghe ngược, nghe xốn tai, nhưng vẫn phải nghe để nhận ra những điều tâm huyết” của ông Kiệt có từ thời gian này, vì ông Oánh nổi tiếng là người thẳng tính, không ngại chỉ trích. Những phát biểu thẳng thắn của ông Oánh tại Quốc hội vẫn còn được nhiều người ghi nhận.
Ông Kiệt cũng ứng xử tương tự với nhà kinh tế Nguyễn Văn Hảo (sinh năm 1942), người từng là Thống đốc Ngân hàng Quốc gia và Phó thủ tướng của VNCH. Những năm 1980, khi ông Hảo đến Pháp định cư, trở thành cố vấn kinh tế cao cấp cho Chính phủ Haiti, ông Kiệt vẫn muốn giữ liên lạc thường xuyên.
Thử hình dung, đầu Thu năm 1982, khi ông Kiệt chuẩn bị ra Hà Nội làm Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng, thì đến chơi với nhà văn Nguyễn Quang Sáng, tại đó nhà thơ Nguyễn Duy đã đọc bài Đánh thức tiềm lực, trong đó có những câu như: “… Cần lưu ý/có lắm nghề lạ lắm/nghề mánh mung cứa cổ bóp hầu nhau/nghề chửi đổng, nghề ngồi lê, nghề vu cáo/ nghề ăn cắp lòng tin và chẹt họng đồng bào/có cả nghề siêu nghề gọi là nghề không làm gì cả/thọc gậy bánh xe cũng một thứ nghề… Bộ sưu tập những điều ngang trái ấy/phù chú ma tà ru tiềm lực ngủ mê”. Sau khi biết việc ông Kiệt nghe bài này với vẻ thích thú thì nhiều nơi mới dám công khai in bài thơ này.
Nhà văn Sơn Nam kể rằng những cuộc gặp với ông Kiệt thường “cãi cọ nhiều hơn vui vẻ, vì ông ấy thích nghe sự thật, thích nghe những ý kiến trái chiều, phản biện. Ông ấy là người hỷ xả, không tư thù, giận hờn hay chấp nê với các ý kiến trái chiều, nghịch nhĩ. Làm một người luôn lắng nghe như ông cũng chẳng sướng ích gì, đôi khi buồn nhiều hơn vui”.
Chuyên gia tài chính Lê Trọng Nhi (thành viên nhóm Thứ Sáu) có nhiều dịp gần gũi, phân tích, cố vấn cho ông Võ Văn Kiệt kể rằng: “Nhiều lúc ông phải “gồng” mình lắng nghe những điều góp ý hoặc phê bình rất khó chịu của giới trí thức. Ông tiếp nhận hết, nhưng ông cũng rất thẳng thắn về những quan điểm của ông và trong vai trò của ông”.
Điều mà ông Nhi nói có thể được nhìn thấy trong một đoạn của lá thư mà ông Kiệt gửi cho nhóm Thứ Sáu: “… Tôi luôn quý trọng tình cảm chân thành, thẳng thắn của anh em. Tôi cũng đánh giá cao những ý kiến đóng góp của anh em về nhiều lĩnh vực trong suốt hơn 15 năm qua, không phải vì tất cả những ý kiến đó đều mới mẻ, đúng đắn, khả thi. Có ý kiến, xét trên quan điểm tổng thể tầm quốc gia, chưa thực sự phù hợp với điều kiện, tình hình nước ta. Có ý kiến cùng gặp nhau với kết quả nghiên cứu, đề xuất của những cơ quan, cá nhân khác. Nhưng tất cả đều xuất phát từ mong mỏi khát khao đưa đất nước vượt lên. Hơn nữa, đều là kết quả của cả một quá trình lao động trí tuệ, công quả, trong khi cuộc sống và công việc thường nhật của mỗi anh em còn không ít khó khăn. Chúc anh em mạnh khỏe, hạnh phúc. Tôi xin thi đua cùng anh em, tiếp tục làm công quả và khuyến khích được nhiều người cùng làm, với tất cả trách nhiệm vì sự nghiệp chung”.
Nhóm Thứ Sáu hình thành từ nhu cầu thực tế của đời sống kinh tế, thời cuộc, văn hóa sau 1975, với khoảng 25 thành viên thường xuyên, hầu hết là chuyên gia, trí thức và công chức từ thời VNCH. Họ hoạt động trên tinh thần “5 không”: Không điều lệ, không biên chế, không vụ lợi, không chủ quản, không lương.
“Theo thiển ý riêng, ông Võ Văn Kiệt đã làm được nhiều điều vượt trên cả vai trò và trách nhiệm của ông. Ông Kiệt là một nhà lãnh đạo thực dụng với đòi hỏi bức bách của đời sống hàng ngày, nhưng cũng không thiếu cái tố chất lãng mạn và mơ mộng về một Việt Nam hòa hợp và hòa giải mà ông đã nhiều lần tâm tình sâu đậm. Câu nói “có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn” của ông Kiệt là chìa khóa về hòa hợp và hòa giải mà chúng ta còn phải cố gắng để mở ra”, Lê Trọng Nhi nói.
Biểu tượng thống nhất mà Phạm Văn Hạng, Vũ Đại Hải, Nguyễn Văn Tất, Hoài Hương, Trịnh Công Sơn cùng với ông Võ Văn Kiệt lên ý tưởng
Điêu khắc gia Phạm Văn Hạng kể rằng sau năm 1975, chúng tôi mở đợt sáng tác mẫu tượng đài chiến thắng (1976 – 1977) với gần 30 đơn vị, tập thể dự thi, không có cá nhân đứng tên. “Thật may, tượng đài chiến thắng thời đó đến nay vẫn chưa thi công, để còn có thời gian suy ngẫm về hình tượng, chất liệu, nội dung… Bởi nếu đã làm thì cũng sẽ hao hao giống nhau, nào đưa tay lên, súng đạn, cờ xí…, để phục vụ tuyên truyền nhiều hơn. Trong khi chúng tôi đang cần biểu trưng văn hóa mang tính nhân văn nhiều hơn, nên phải tiếp tục nghĩ suy” – Phạm Văn Hạng nói.
Sau 18 năm (1977 – 1995), ông Võ Văn Kiệt mới gặp lại Phạm Văn Hạng để cùng suy ngẫm về tượng đài chiến thắng cho chúng tôi dự kiến đặt trong sân của Dinh Thống Nhất. Phạm Văn Hạng cùng các kiến trúc sư Vũ Đại Hải, Nguyễn Văn Tất, họa sĩ Hoài Hương, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cùng góp sức suy tư về công trình với ý tưởng “triệu trái tim trong một trái tim”.
Ông Kiệt từng đến nhà Phạm Văn Hạng (quận Gò Vấp chúng tôi đề nghị hoàn thành hồ sơ công trình một cách trang trọng, chi tiết. Trước khi qua đời khoảng 60 ngày, ông Kiệt đã đề nghị Phạm Văn Hạng, kiến trúc sư Nguyễn Văn Tất tìm chuyên gia thủy tinh để giải trình kỹ/mỹ thuật, và vị trí hướng đến là giữa ngã tư Pasteur – Lê Duẩn, chúng tôi Tuy nhiên đến nay thì biểu tượng đó vẫn là ý tưởng được ôm ấp của những người còn lại.
Môn Đệ Karate (The Karate Kid) 1984: Tinh Thần Thượng Võ
Thập niên 80 có lẽ là kỷ nguyên hoàn hảo nhất trong lịch sử Hollywood. Là giai đoạn bùng phát của kỹ xảo điện ảnh, những năm 1980 tại kinh đô đã cho ra đời nhiều tác phẩm với các nội dung phong phú, đa dạng.
Mỗi bộ phim ở thời kỳ này đều có phong vị riêng, in dấu mình lên văn hóa đại chúng lịch sử cũng như thúc đẩy sự phát triển của công nghệ kỹ thuật làm phim. Một trong số đó có thể kể đến bộ phim Môn Đệ Karate (The Karate Kid) được đạo diễn John G. Avildsen sản xuất năm 1984 (đạo diễn từng giành giải Oscar với bộ phim kinh điển Rocky năm 1976).
Đánh giá phim Môn Đệ Karate (The Karate Kid) 1984
Từ các phim tận dụng hết cỡ những tình tiết gay cấn cháy nổ như Aliens, Indiana Jones, Die Hard, đến những phim khoa học viễn tưởng như E.T., Ghostbusters, Back to the Future, hay các tác phẩm dành cho thanh thiếu niên trong độ tuổi mới lớn như The Breakfast Club, The Goonies, Ferris Bueller’s Day Off…
Khó hòa nhập được với chúng bạn do thường xuyên bị bắt nạt bởi một nhóm các học sinh trong trường, đặc biệt là có hiềm khích với tên trưởng nhóm Johnny Lawrence (William Zabka) khi cậu có qua lại người bạn gái của hắn là Ali.
“strike first, strike hard, no mercy” (tấn công trước, tấn công mạnh mẽ, không nhân từ)
Những học trò tại Cobra Kai luôn nghe lời thầy (sensei) một cách răm rắp và sẽ bị phạt nếu như tỏ ra dù là một chút của sự yếu đuối. Nản chí, Daniel quyết định tự học Karate ở nhà qua sách vở.
Sau khi chứng kiến một trận đánh nhau giữa hội của Johnny với Daniel, một thợ sửa chữa người Nhật tại khu nhà của cậu quyết định bảo vệ cậu và hứa sẽ dạy võ cho cậu – ông Miyagi (thủ vai bởi Pat Morita), người với thú vui tao nhã là tỉa tót cây bonsai. Ông Miyagi đến gặp với người thầy của võ đường Cobra Kai và hai bên quyết định sẽ làm cho ra nhẽ bằng việc cả hai sẽ tham gia giải đấu Karate của khu vực – All Valley Tournament.
Từ những đòn cơ bản nhất, cho đến những món đòn “cao cấp”, Daniel tập luyện rất chăm chỉ để chuẩn bị cho giải đấu một cách kỹ càng nhất. Những triết lý mà thầy Miyagi truyền đạt lại cho Daniel như thông qua màn ảnh rộng, được truyền lại cho một thế hệ những con người trẻ của thập niên 80: Đó là những giá trị, phẩm chất, đạo lý không chỉ áp dụng được vào võ thuật mà còn trong cuộc sống trong Môn Đệ Karate.
Tôi, người viết, vẫn còn rất ấn tượng với một câu nói của thầy Miyagi đối với Daniel:
“Whole life have balance”
Dịch sang tiếng Việt, nôm na ta có thể hiểu:
“Mọi thứ trong cuộc sống đều có sự cân bằng”.
Trận đánh ở cuối phim vẫn là một trong những cảnh quay ấn tượng nhất trong lịch sử điện ảnh đương đại, với hình ảnh Daniel đứng ở vị trí “cần cẩu” và Johnny chuẩn bị xông vào tấn công đã trở thành một biểu tượng của văn hóa đại chúng. The Karate Kid trên hết một trong những bộ phim tuổi teen hay nhất trong lịch sử, với những thông điệp sống gần gũi mà bất kỳ ai trong chúng ta – từ trẻ đến lớn, đều có thể liên hệ được.
Môn Đệ Karate khi ra mắt đã được đón nhận vô cùng nồng nhiệt và giúp cho Pat Morita đạt được giải Oscar năm 1985 cho Vai diễn viên phụ thầy Miyagi. Phần hai của bộ phim lấy bối cảnh ở Nhật Bản ra mắt năm 1986, và phần ba năm 1989. Năm 2010, bản remake với sự góp mặt của Thành Long và Jaden Smith cũng nhận được nhiều lời khen từ phía khán giả.
The Karate Kid – Môn Đệ Karate(1984) xứng đáng là một tượng đài, một bộ phim ý nghĩa hàm súc nhiều giá trị nhân đạo mà đồng thời vừa là một tác phẩm có thể thưởng thức được bởi mọi lứa tuổi.
Phương Pháp Dạy Con Khi Mang Thai Theo Tinh Thần Phật Giáo
TTPG – Theo khoa học hiện nay, trong hơn 9 tháng mang thai của người phụ nữ được chia làm 3 thời kỳ. Mỗi giai đoạn, đứa trẻ sẽ có sự phát triển khác nhau về hình dáng, nhận thức.
Bất kỳ người làm mẹ nào cũng đều cảm thấy vô cùng hạnh phúc khi biết mình đang mang trong mình một mầm sống. Bởi đứa con là kết tinh của tình cảm vợ chồng, là niềm hy vọng và ước mơ của đấng sinh thành về một em bé khỏe mạnh, ngoan ngoãn và thành đạt sau này
Khi khoa học phát triển thì người làm mẹ cũng có nhiều điều kiện tiếp xúc với các kỹ thuật hiện đại, các phương pháp chăm sóc con cái tốt về thể chất và trí não ngay từ khi mang thai. Đặc biệt, nếu bạn là một Phật tử, đã ít nhiều hiểu về giáo lý nhà Phật. Bạn cũng mong muốn đứa của mình không chỉ khỏe mạnh, thông minh mà còn được gieo chủng tử Phật ngay từ khi con đang tượng hình trong cơ thể mẹ. Bài viết này không nằm ngoài mục đích hướng dẫn những người làm cha mẹ những phương pháp dạy con khi mang thai theo tinh thần Phật giáo
1. Tâm lý người mẹ tác động đến đứa con như thế nào khi mang thai Khi mang thai, người phụ nữ có những trạng thái cảm xúc rất phức tạp mà ngay chính bản thân họ cũng không thể hiểu hết được. Lúc này, người phụ nữ rất dễ bị xúc động, hay cáu gắt, giận hờn, buồn phiền, khóc lóc, u uất nếu như gặp phải những sự việc không như ý. Theo khoa học hiện đại, dây rốn là nơi dòng cảm xúc của người mẹ có sự liên hệ trực tiếp với đứa con. Nếu như người mẹ có sự hận thù, oan ức, cơ thể mẹ sẽ tạo ra chất adrenalin, khi sợ hãi cơ thể sẽ phóng thích chất cholamine, hay khi phấn chấn tạo ra endorophine. Các chất hóa học này đi qua lá nhau đến đứa trẻ trong vòng vài giây sau khi bạn trải qua các cảm xúc trên. Những ảnh hưởng xấu đến đứa trẻ khi người mẹ mang thai dễ bị stress có thể kể đến như: dễ làm thiếu oxy máu của thai nhi, ảnh hưởng tới các thành tố hóa học của máu và dinh dưỡng thai nhi có thê gây ra các dị tật ở thai nhi. Nếu người mẹ khi mang thai hay cáu gắt, oán ghét cái thai, từ đó tình cảm mẹ con đã có những rạn nứt. Nhiều nhà tâm lý học cho rằng quan hệ tình cảm mẹ con thời kỳ đầu sẽ ảnh hưởng tới cá tính và hành vi cũng như sự hoàn chỉnh tâm lý của đứa trẻ. Với những người mẹ hay căng thẳng, lượng hormone cortisol và dolpamine trong máu sẽ gia tăng. Các chất này đi qua nhau thai làm nồng độ cortisol và dopamine ở những trẻ này tăng cao hơn so với trẻ bình thường khác. Vì thế, đứa trẻ sinh ra có thể bị tăng động quá mức, gần giống với chứng tăng động giảm chú ý. Đặc biệt, nếu bà mẹ nào đang mang thai ở tuần thứ 32 mà bị rối loạn tâm lý thì trẻ sinh ra có nguy cơ bị rối loạn hành vi cao gấp hai lần, kéo dài đến 4-5 tuổi. Với thai phụ rối loạn tâm lý ở tuần thứ 38-40, tỉ lệ nguy cơ rối loạn hành vi của đứa trẻ cũng cao gấp hai lần nhưng kéo dài đến 7-8 tuổi. Ở mẹ bị trầm cảm, các hormone tâm lý của mẹ tác động vào hệ thống tuyến nội tiết của con. Từ đó hệ thống này bị giảm chức năng nên dẫn đến thiếu hụt một số hormone, khiến trẻ sinh có nguy cơ mắc bệnh tự kỷ. Ngoài ra, nếu người mẹ hay bị stress thì đứa trẻ sinh ra dễ bị chậm nói, tăng nguy cơ mắc bệnh hen suyễn và dị ứng ở trẻ, có nguy cơ mắc bệnh tim cao hơn so với những đứa trẻ khác. Đồng thời, chúng cũng có khả năng đối phó với căng thẳng trong cuộc sống kém hơn, sức khỏe cũng yếu hơn so với những đứa trẻ khác.
Ngược lại, trong suốt 9 tháng 10 ngày mang thai, nếu người mẹ vui vẻ, có thái độ sống tích cực thì sẽ tạo ra hóa chất enophin, giúp đứa trẻ sinh ra sau này cũng rạng rỡ, năng động.
2. Chăm sóc thai nhi trong ba tháng thai kỳ theo tinh thần Phật giáo Từ những điều trên, chúng ta có thể thấy được tầm quan trọng tâm lý người mẹ và những thành viên khác trong gia đình có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của thai nhi. Vì thế, những phụ nữ vừa với vai trò là mẹ, vừa là một cư sĩ tại gia, thấy được những giáo lý cũng như những sự nhiệm màu của Phật giáo đối với con người thì nên ứng dụng thêm cách giáo dục thai nhi theo quan điểm Phật giáo để đem lại lợi lạc cho bản thân và cả con cái về sau.
Theo khoa học hiện nay, trong hơn 9 tháng mang thai của người phụ nữ được chia làm 3 thời kỳ. Mỗi giai đoạn, đứa trẻ sẽ có sự phát triển khác nhau về hình dáng, nhận thức. Vì thế, tùy vào từng giai đoạn, người mẹ cần có sự giáo dục phù hợp.
a. Ba tháng mang thai đầu tiên (quý 1): Vào tháng đầu tiên của thời kỳ thai nghén, cơ thể của bé nhỏ xíu như hạt lúa, bé lúc này gọi là phôi thai. Phôi thai tháng đầu tiên có chiều dài khoảng 1cm, nặng khoảng 2g. Từ tháng thứ 2, chiều dài phôi thai được 4cm, phôi nặng khoảng 14 – 15 gam và bắt đầu có tim thai. Tháng thứ ba mí mắt đã phát triển và khép phủ lên mắt, cơ quan sinh dục đã hình thành, các ngón tay, ngón chân đã phân biệt rõ và có móng, chiều dài phôi khoảng 9cm nặng khoảng 90-100g. Thời kỳ này, đa số các người mẹ hay bị các cơn nghén hành hạ rất khổ sở. Tâm lý người mẹ cũng có những biến đổi rất thất thường, dễ khóc, hay nổi cáu, tức giận…. Nhận thức được điều này, ngay từ những tháng đầu tiên của thai kỳ, người mẹ nên huân tập cho mình một tâm lý an nhiên, tự tại bằng phương pháp thiền định, làm chủ các cảm xúc của mình, không để những suy nghĩ tiêu cực kéo dài quá lâu. Thai phụ nên nghe nhạc thiền Phật giáo vào 3 lần mỗi ngày, mỗi lần khoảng 20 phút. Chúng ta có thể chọn những loại nhạc Phật giáo không lời có giai điệu du dương, nhẹ nhàng hoặc những bản nhạc Phật giáo có lời như nhạc niệm Phật A Di Đà, nhạc Quan Thế Âm Bồ Tát hoặc kinh A Di Đà, kinh Địa Tạng, chú Đại bi… Âm lượng khi mở nên vừa phải, đủ nghe, nhất là mỗi khi ngủ nghỉ hoặc trong không gian tĩnh lặng, người mẹ nên quán tưởng đến hình ảnh của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm, Đức Phật Di Đà, Phật Di Lặc… Với những việc làm trên, người phụ nữ khi mang thai sẽ có tâm trang thư thái, tự tại. Từ đó, đứa con cũng cảm thấy như được rưới mát, nhẹ nhàng. Sau khi ăn cơm xong, chúng ta cũng nên dành khoảng 10-20 phút thiền hành. Các nhà khoa học cũng khuyên phụ nữ mang thai nên đi bộ nhẹ nhàng rất tốt cho thai nhi. Với những Phật tử khi mang thai vừa có thể kết hợp đi bộ chậm rãi vừa đi trong chánh niệm mà nhà Phật hay gọi là đi kinh hành. Mỗi bước chân của ta có thể niệm thầm hoặc niệm thành tiếng hồng danh Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát hoặc Nam mô A Di Đà Phật… Chí tâm, chí thành niệm Phật và cầu nguyện cho thai nhi khỏe mạnh là những điều vô cùng lợi lạc cho đứa trẻ. Một điểm mà những người mẹ mang thai cần lưu ý là: nếu bạn có con khi tâm lý chưa chuẩn bị sẳn sàng như bị cưỡng hiếp, bị phụ tình hoặc đứa trẻ không được người cha hoặc hai bên gia đình chấp nhận thì người mẹ nên vững vàng về tinh thần. Chúng ta không nên mang tâm lý oán hận, buồn bã, bởi những ai làm sai đã có luật nhân quả trừng trị, phải suy nghĩ nuôi mầm sống đang hình thành trong cơ thể bằng một tâm vị tha thì đứa trẻ ra đời cũng sống nhân ái, bao dung.
Nghe nhạc Phật giáo rất tốt cho thai nhi
b. Thai nhi 3 tháng giữa (quý 2): Từ tháng thứ 4, lông mày, lông mi và móng của bé bắt đầu phát triển, da bé vẫn còn rất mỏng. Từ tháng thứ 5, mẹ có thể cảm nhận những cử động đầu tiên của bé con thân yêu của mình. Tháng thứ 6, da bé dày hơn, lớp mỡ dưới da xuất hiện, bé cử động mạnh hơn và đã có phản xạ nuốt, chiều dài của bé khoảng 30cm và nặng khoảng 600-700g. Khi siêu âm trong giai đoạn này, chúng ta đã có thể biết được giới tính của thai nhi. Vì thế, nếu bạn không quan trọng về giới tính thai nhi thì tâm lý của bạn sẽ thoải mái với kết quả siêu âm. Nhưng nếu bạn đang mong chờ đứa trẻ là công chúa hoặc một cậu nhóc kháu khỉnh thì đừng ức chế nếu giới tính của bé không như ta mong đợi. Nếu khởi tâm buồn rầu, chán chường thì đứa trẻ cũng sẽ cảm nhận được rất rõ. Trong giai đoạn này, người mẹ cũng nên tích cực xem các bộ phim Phật giáo về những hạnh hiếu, hạnh bi, nhẫn của các vị Phật, Bồ tát, thiền sư… hoặc những bộ phim xã hội có tính giáo dục cao. Các bạn nên tránh xem những bộ phim thuộc các thể loại như kinh dị, ủy mị, chiến tranh… Khi nghe nhạc cũng tránh nghe những loại nhạc như rock, nhạc sến… Những bộ phim hay thể loại nhạc nêu trên rất dễ làm cho tâm lý người mẹ bị chìm xuống vực sâu. Đồng thời, nếu bạn có những khúc mắc, những nỗi buồn cất giấu trong lòng thì nên chia sẻ với chồng, người thân hoặc bạn bè – những người mà bạn cảm thấy tin tưởng, tránh để tinh thần ủ dột, đau buồn. Chúng ta cần tạo ra tâm lý vui vẻ, thường xuyên tâm sự với đứa trẻ, mỗi ngày nên lạy Phật từ 3 – 7 lạy và cảm tưởng cũng như nói với con rằng cả mẹ và con đều đang lạy Phật. Thêm vào đó, trong thời gian mang thai, chúng ta nên học hạnh bao dung, vị tha, không cằn nhằn, chì chiết chồng con, gia đình. Những thời gian rảnh rỗi, đặc biệt vào ngày rằm, mồng 1 và lễ lớn, người mẹ nên đến chùa để tụng kinh, lạy Phật, phóng sanh, cúng dường… Với những công đức, phước lành mà chúng ta có được, người mẹ nên hồi hướng cho con, nguyện cho đứa con sinh ra khỏe mạnh, sống biết thương người, có đạo nghĩa và được bén duyên với đạo Phật.
Tóm lại, từ các vần đề nếu trên trong suốt hơn 9 tháng mang thai, người mẹ nên áp dụng phương pháp dạy con theo những phương thức sau.
– Thai giáo bằng cảm xúc: tránh tối đa các phản ứng tiêu cực trong thời gian mang thai: vui, buồn, mừng, giận đồng thời phát triển các nhân cách tích cực: thương người (từ), cảm thông trước nỗi khổ, niềm đau của người khác (bi), tâm lúc nào cũng vui vẻ (hỷ), buông bỏ những uất hận, nỗi buồn (xả). Đứa trẻ khi đầu thai vào cha mẹ đã có thần thức, ý niệm, có sóng, cho nên khởi tâm động niệm và hành động của người mẹ đều ảnh hưởng đến thai. Nên trong thời gian người mẹ mang thai, nếu khởi tâm động niệm thiện, thanh tịnh thì thai nhi sẽ nhận được rất nhiều lợi lạc. Ngay trong lúc mang thai, chính bản thân chúng ta phải thực hành tận hiếu thảo, sóng hiếu thảo đó sẽ ảnh hưởng đến thai nhi. Thai giáo bằng nhạc thiền: thường xuyên nhạc thiền không lời, nhạc thiền có lời, nhạc thiền bằng tiếng anh hoặc tiếng hoa, chọn nghe những bản nhạc mà mà thấy tâm rũ bỏ được những khổ đau, nhạc kinh A Di Đà, nhạc Vu lan, nhạc kinh Phổ Môn….
– Thai giáo bằng ngôn ngữ: có 4 cách truyền thông bằng ngôn ngữ: nói lời sự thật; nói những lời xây dựng, hòa hợp, hàn gắn; nói bằng ngôn ngữ, ngữ điệu hòa ái, không văng tục, không nói châm biếm, nói lưỡi hai chiều làm người khác phải buồn; nói những điều thật sự có lợi ích. Người mẹ khi mang thai không nên nghe chuyện thị phi, cũng không nên mang những chuyện thị phi ở ngoài đường vào nhà mình và ngược lại. Phát ngôn bằng lời từ ái, ngữ điệu từ ái, xuất phát từ tâm chúng ta. Tránh các ngôn ngữ căng thẳng. Ngày nay, với thời đại kỹ thuật số, các phương tiện như điện thoại, blog, facebook cũng là nơi để chúng ta phát ngôn tuy không thành tiếng. Vì vậy, bất cứ một thông tin nào được đăng tải trên các phương tiện trên, người mẹ cũng nên biểu đạt bằng ngôn ngữ dễ nghe, thân thiện.
– Thai giáo bằng mĩ học: mĩ học là quan niệm thẩm mỹ lệ thuộc vào lối sống của con người. Người mẹ khi mang thai đừng bỏ quên cách giáo dục con trẻ bằng mĩ học. Chúng ta nên thường xuyên treo những hình ảnh cao đẹp ở nhà như tượng Bồ tát, hình Phật hoặc hình các em bé dễ thương để nhìn ngắm. Điều này sẽ tác động rất tốt đến đứa trẻ sau khi ra đời.
Khi mang thai, người mẹ nên nhìn những hình ảnh đẹp, trang nghiêm
3. Người mẹ nên đọc tụng kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện trong thời gian mang thai Đặc biệt, người mẹ khi mang thai nên đọc tụng mỗi ngày một bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát bổn nguyện hoặc niệm ngàn câu danh hiệu Địa tạng Vương Bồ tát. Với việc đọc tụng, lễ lạy chân thành, tha thiết như thế sẽ đem đến một hiệu quả bất khả tư nghì.
Bởi lẽ, theo quan điểm Phật giáo, mọi mối quan hệ của con người chia thành 4 loại: báo ân, báo oán, đòi nợ, trả nợ. Cha mẹ, anh em, con cái trong một gia đình cũng không nằm ngoài những nhân duyên phức tạp đó. Thế nên, khi đứa trẻ đầu thai vào một gia đình nào đó, nếu nó là oan gia trái chủ của bạn, lớn lên sẽ là đứa con ngỗ nghịch, phá tán nhưng người mẹ khi còn đang mang thai thường xuyên đọc tụng kinh Địa Tạng Vương Bồ Tát Bổn nguyện thì oán kết này sẽ được hoá giải. Ngược lại, nếu đứa trẻ trong bụng người mẹ đến để báo ân thì mối nhân duyên tốt đẹp giữa đứa bé và cha mẹ chúng sẽ ngày càng sâu dày.
Phật giáo hướng dẫn chúng ta phương pháp, trong vòng bảy ngày, sớm đọc tụng bộ kinh bất khả tư nghì này. Tốt nhất là đọc sớm. Khi biết có thai liền nên đọc, mỗi ngày đọc tụng một bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện, hoặc niệm nghìn câu danh hiệu Bồ Tát Địa Tạng. Cần phải dùng tâm chân thành cung kính để tụng niệm thì phước báu sẽ vô cùng to lớn.
Vì sao đức Phật khuyên chúng ta đọc bộ kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện?
Nếu người mẹ chí thành, chí tâm tụng niệm quyển kinh này ngay từ khi mang thai hoặc chậm nhất là trong vòng 7 ngày trước khi sanh thì đứa bé mới chào đời, dù trai hay gái, nếu có ác báo đều có thể được giải trừ. Mỗi một con người ngay từ khi chưa chào đời đã mang trong mình nghiệp lực của đời trước và đến đời này, những nghiệp xấu ác sẽ lớn lên và buộc người kia phải chịu quả báo.Vì vậy thời điểm mang thai bé là lúc nghiệp chướng rất dễ tiêu trừ. Còn khi em bé lớn lên, sáng tối suốt ngày suy nghĩ lung tung, lúc đó chúng ta muốn tiêu trừ nghiệp chướng cho con cũng khó lòng giúp được. Lúc mang thai, bé hoàn toàn nghe lời, tiêu trừ nghiệp chướng nên thực hiện ngay trong thời gian này. Không những thế, khi đọc tụng kinh này, đứa trẻ còn trở nên dễ nuôi, thọ mạng được tăng trưởng. Nếu đứa bé này do thừa phước mà sanh, đến để báo hiếu cho cha mẹ hiền tiền thì việc độc tụng bộ kinh này sẽ giúp gia tăng thêm phước báu cho chúng và đem lại lợi ích càng lớn cho đứa trẻ về sau.
Một người quyết chí đoạn trừ nghiệp chướng, khổ đau, xuất gia tu hành để tìm cầu giải thoát thì điều đó không có gì phải bàn nữa. Nhưng nếu chúng ta muốn sống một cuộc đời cư sĩ, có gia đình, có con cái và tích phước, làm lành thì ai cũng mong muốn có cuộc sống bình yên, vợ chồng hạnh phúc, con cái thuận hòa, hiếu thảo. Vậy thì ngay từ khi mang thai, việc giáo dục thai nhi theo tinh thần Phật giáo là điều vô cùng quan trọng. Người phụ nữ mang thai nên thực hành theo những điều nêu trên để chào đón một đứa trẻ vừa khỏe mạnh, thông minh vừa có nhiều đức tính tốt, lớn lên sẽ là những người đệ tử Phật chân chính hoặc là những người hộ trì cho chánh pháp, xây dựng xã hội phồn vinh.
Bạn đang xem bài viết Hòa Hợp Dân Tộc Theo Tinh Thần Cố Thủ Tướng Chính Phủ Võ Văn Kiệt trên website Boxxyno.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!