Xem Nhiều 3/2023 #️ Hiểu Đúng Câu Nói : “Dân Thanh Hóa Ăn Rau Má, Phá Đường Tàu” # Top 10 Trend | Boxxyno.com

Xem Nhiều 3/2023 # Hiểu Đúng Câu Nói : “Dân Thanh Hóa Ăn Rau Má, Phá Đường Tàu” # Top 10 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Hiểu Đúng Câu Nói : “Dân Thanh Hóa Ăn Rau Má, Phá Đường Tàu” mới nhất trên website Boxxyno.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Bạn quê ở đâu? Tớ quê ở Thanh Hóa Chắc các bạn không lạ lẫm gì với hình biểu cảm mặt chữ O, mỗm chữ B của mọi người khi nghe tới 2 từ Thanh Hóa. Gặp người tử tế thì họ tế nhị nói chuyện xã giao rồi biện cớ tránh đi mắt. Nếu không may người Thanh Hóa gặp phải ngưởi thô thiển sẽ bị kỳ thị: “Dân Thanh Hóa ăn rau má phá đường tàu” với ý nghĩa mỉa mai: Người Thanh Hóa có tính ăn người, keo kiệt lại bẩn tính. Nếu bạn sinh sống trên mảnh đất Hà Nội, bạn sẽ nhận ra ngay người Thanh Hóa thường bị phân biệt đối xử hơn. Thậm chí nhiều bạn sinh viên không thể tìm được nhà trọ vì là người Thanh Hóa hay có những công ty còn “ngang nhiên” từ chối tuyển dụng do đối tượng quê Thanh Hóa.   

Câu chuyện thứ nhất, nổi tiếng nhất đó là ngày xưa khi Pháp đã hoàn toàn chiếm được nước ta chúng bắt đầu đi vào khai thác, vơ vét sản vật của nước ta. Để dễ dàng hơn cho việc vận chuyển, chúng cho làm đường sắt. Khi làm đường tàu đến huyện Hoằng Hóa thì người dân nơi đây với sự căm thù giặc sâu sắc, tinh thần đấu tranh với kẻ thù mọi lúc khi có điều kiện đã tổ chức phá hủy đường sắt của giặc. Công việc của thực dân cướp nước cực kỳ khó khăn, làm mãi không xong. Giặc cứ làm còn ta cứ phá. Quan Pháp tức tối triệu quan huyện Hoằng Hóa mà hỏi rằng: Tại sao đường sắt làm đến khu vực này thì làm hoài không xong, sao không ngăn dân chúng phá đường tàu. Quan huyện vốn cũng là một người yêu nước, mới nói rằng: “thưa quan, chúng tôi cũng tìm cách ngăn dân lại đó chứ ạ. Nhưng dân chúng tôi khổ quá không có gì ăn nên phải ăn rau má, mà Cây rau má trên đường tàu vừa nhiều, non và ngon nhất. Dân tôi không cố ý đâu ạ.“. Từ đó câu nói “Dân Thanh Hóa ăn rau má phá đường tàu” luôn được gắn liền với dân Thanh Hóa.

Câu chuyện thứ hai là: ” Thời kháng chiến chống Pháp, Thanh Hóa là một trong những hậu phương vững chắc của cuộc kháng chiến. Thanh Hóa huy động hàng vạn dân công, bộ đội phục vụ vận tải chiến đấu. Gian khổ phải ăn Cây rau má cầm hơi, phá đường tàu Pháp lấy sắt rèn đao kiếm súng ống. Nói đến đây bạn đã hiểu gì chưa nhỉ. Vâng chúng tôi đúng là có ăn rau má, nhưng là để tiết kiệm gạo cơm góp cho chiến trường. Chúng tôi có phá đường tàu, nhưng là đường tàu địch và chúng tôi phá đề rèn dao kiếm, súng ống cho chiến trường đó.

Lá rau má được coi như Sâm của Việt Nam

Hai câu chuyện trên rõ ràng câu nói: “Dân Thanh Hóa ăn rau má phá đường tàu” là có ý khen ngợi, cảm phục sự chịu khó, anh hùng của người Thanh Hóa trong chiến đấu chống ngoại xâm đó chứ. Ấy vậy mà ngày nay, ý nghĩa của câu nói đó lại bị một số người cố tình làm sai lệch đi. Tuy nhiên, một phần khiến cho người dân xứ Thanh bị kỳ thị bởi xuất hiện vài “con sâu làm giàu nồi canh”. Ở đâu cũng có người tốt, kẻ xấu vì thế mọi người hãy thay đổi cái nhìn, đừng đánh đồng tất cả mà tội nghiệp người lương thiện.

Lịch Sử Thanh Hóa Cổng Thông Tin Điện Tử Tỉnh Thanh Hóa

LỊCH SỬ THANH HÓA

Page Content

I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH

1. Thanh Hóa trong thời kỳ các vua Hùng dựng nước.

            Vào đầu thời đại đồng thau, ở đồng bằng Bắc Bộ, văn hoá Phùng Nguyên đã phân bố trên một vùng rộng lớn từ các tỉnh Vĩnh Yên, Phú Thọ, Hà Tây, Hải Phòng, Hà Giang, Bắc Ninh, Hà Nội. Ở Thanh Hoá, các bộ lạc nguyên thuỷ cũng có mặt trên địa bàn rất rộng: từ miền núi đến đồng bằng, ven biển.

            Ở miền núi: Người thời đại đồng thau đã để lại dấu vết trong các hang động Thẩm Hai và Thẩm Tiên (thuộc huyện Thường Xuân). Trong tầng văn hoá dày từ 20 – 30cm, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều rìu, đục bằng đá được mài nhẵn. Đồ gốm thu được ở đây không nhiều nhưng đã thể hiện trình độ chế tác rất độc đáo: gốm thường có miệng loe dày, vai xuôi, có loại có chân đế. Hoa văn trang trí rất đa dạng nhưng chủ yếu bằng kĩ thuật khắc vạch với những đường song song hoặc cắt nhau chạy thành từng băng quanh thân. Trong tầng văn hoá cũng tìm thấy cả vỏ ốc suối. Với sự phát triển của kĩ thuật chế tác đồ gốm, lại cư trú trên địa bàn xung quanh các thung lũng bằng phẳng, những cư dân thuộc nhóm di tích Thường Xuân đã là những người làm nông nghiệp.

            Ở miền biển: Trong khi các bộ lạc miền núi Thường Xuân sản xuất nông nghiệp và phát triển nghề làm gốm, thì ở vùng biển, một nhóm các bộ lạc khác đã biết đến kim loại. Di chỉ tiêu biểu là Hoa Lộc (xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc) đã được khai quật lớn vào năm 1974 và 1975. Vì vậy nền văn hoá khảo cổ ở đây được đặt tên là văn hoá Hoa Lộc. Cư dân văn hoá Hoa Lộc sống gần bờ biển. Tại các di chỉ thuộc văn hoá này đã phát hiện được nhiều chì lưới bên cạnh xương răng các loài cá biển, cá nước ngọt, chứng tỏ đánh cá là một nghề quan trọng của họ. Cũng tìm thấy ở đây xương răng các loài động vật đã được thuần dưỡng như trâu, bò, chó, lợn, và thú rừng như hươu, nai, hoẵng, lợn rừng, tê giác v.v… Rõ ràng chủ nhân văn hoá Hoa Lộc còn là những người chăn nuôi và săn bắn giỏi. Nhưng không nghi ngờ gì nữa, các bộ lạc văn hoá Hoa Lộc đã có một nền nông nghiệp dùng cuốc phát triển.

            Tại di chỉ Hoa Lộc (hay còn gọi là Cồn sau chợ), đã tìm thấy số lượng rất lớn cuốc đá có vai hoặc hình tứ giác (61 chiếc). Ở di chỉ Phú Lộc (còn có tên là Cồn Nghè) tìm thấy tới 80 cái. Rìu và bôn có vai được mài nhẵn toàn thân, có hình dáng cân đối, cũng là loại nông cụ được tìm thấy khá nhiều ở văn hoá Hoa Lộc. Nhưng rõ ràng nhất là tại di tích Bái Cù, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều vết tích của vỏ trấu. Đây là trấu của giống lúa nước.

            Chủ nhân văn hoá Hoa Lộc là những người làm gốm giỏi, đồ gốm của họ rất độc đáo cả về hình dáng lẫn hoa văn trang trí. Họ đã tạo được những cái bình có vai gãy, miệng gâp vào trong. Có cả loại có miệng hình nhiều cạnh mà các nơi khác rất hiếm gặp. Hoa văn trên đồ gốm Hoa Lộc cũng rất đẹp và phong phú: người ta đã thống kê được 18 đồ án hoa văn khác nhau trên đồ gốm Hoa Lộc, trong đó, đặc trưng và độc đáo nhất là hoa văn hình bọ gậy được tạo bằng cách ẩn miệng vỏ sò biển lên thân gốm khi còn ướt.

            Một đặc điểm quan trọng khác của văn hoá Hoa Lộc là sự xuất hiện rất nhiều những con dấu bằng đất nung. Các con dấu này có hình chữ nhật hoặc gần tròn, thường được người thợ gốm khắc những chữ “S” hoặc những hoa văn nối tiếp nhau với nét khắc rất sâu. Các nhà nghiên cứu cho rằng, công dụng của những con dấu này có lẽ được dùng để in hoa văn lên vải hơn là để tạo hoa văn trên đồ gốm. Cũng tại Hoa Lộc, còn tìm thấy những hộp đất nung hình chữ nhật, có hai ngăn, mà công dụng cho đến ngày nay vẫn còn tranh cãi. Điều quan trọng là đã phát hiện được dấu vết của đồng trong văn hoá Hoa Lộc, đó có thể là những mẩu dây hoặc dùi đồng đã bị rỉ nát. Trong tương quan với các nền văn hoá cùng thời, các nhà nghiên cứu nhận thấy đã xuất hiện sự giao lưu giữa các bộ lạc văn hoá Hoa Lộc với chủ nhân các nền văn hoá khác. Ở phía Bắc, hoa văn in mép vỏ sò đặc trưng của văn hoá Hoa Lộc đã tìm thấy ở Sập Việt, Bản Gièm (Sơn La). Nhiều mảnh gốm kiểu Hoa Lộc được tìm thấy ở Gò Mả Đống (Ba Vì – Hà Nội), núi Lê (Ninh Bình), đồi Ghệ, đồi Giạ (Vĩnh Phú cũ). Ở phía Nam, phong cách trang trí và đồ án hoa văn hình chữ S in bằng miệng vỏ sò đã thấy xuất hiện ở Pò Cung (Quỳ Hợp – Nghệ An).

            Căn cứ vào những thành tựu trong kĩ thuật chế tác các loại công cụ, trong các ngành kinh tế sản xuất và sự phân bố các di chỉ trên một vùng rộng lớn, có thể nhận thấy rằng mật độ cư dân trong văn hoá Hoa Lộc đã khá cao. Chủ nhân văn hoá Hoa Lộc hẳn đã có cuộc sống tinh thần khá phong phú: chỉ có những bộ óc phóng khoáng với những bàn tay khéo léo mới có thể tạo nên những kiểu dáng và hoa văn trên đồ gốm phong phú đến vậy. Sự phát triển mạnh mẽ của nghề đánh cá biển và kĩ thuật chế tác kim loại ra đời có thể đã góp phần quan trọng xác lập chế độ công xã thị tộc phụ quyền trong đời sống xã hội văn hoá Hoa Lộc.

            Ở vùng đồng bằng sông Mã: Khi các bộ lạc ở miền núi, miền biển Thanh Hoá bước vào thời đại đồng thau cách đây khoảng 4.000 năm thì vùng đồng bằng ven đôi bờ sông Mã, cư dân các bộ lạc ở di chỉ Cồn Chân Tiên cũng bước vào sơ kì thời đại đồng thau. Cùng thời với di chỉ này, ven đôi bờ sông Mã còn phát hiện được các di chỉ núi Chàn (ở sườn tây núi Đọ), khe Tiên Nông (sườn Tây Bắc núi Nuông). Kết quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ này đã được nhiều nhà nghiên cứu xác định là giai đoạn sớm nhất của thời đại đồng thau ven sông Mã, là cốt lõi mở đầu trong quá trình hình thành bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang.

            Những công cụ bằng đá ở Cồn Chân Tiên cho thấy cư dân giai đoạn này đã đạt tới trình độ kĩ thuật chế tác đá rất cao. Họ sử dụng đá bazan khai thác ở núi Đọ. Họ sử dụng kĩ thuật ghè để tạo phác vật, sau đó ghè tu chỉnh và tiến hành mài đá. Họ đã dùng hai loại bàn mài để mài phá và mài trau (loại đá có kết cấu hạt to dùng mài phá, loại mài trau có kết cấu hạt mịn). Bàn mài của họ đôi khi được dùng cả bốn mặt, có loại có rãnh chắc được dùng để mài đồ trang sức. Rìu đá ở Cồn Chân Tiên chủ yếu là rìu lưỡi cân, cạnh đó còn có loại lưỡi mài vát một bên có tiết diện hình chữ V lệch (thường được gọi là bôn). Đặc biệt ở đây đã tìm thấy những chiếc rìu và bôn có hình dáng nhỏ nhắn và rất xinh bằng đá ngọc, lưỡi rất sắc bén. Cũng tìm thấy nhiều vòng trang sức bằng đá, cư dân Cồn Chân Tiên chế tác công cụ ngay tại nơi cư trú.

            Di chỉ Cồn Chân Tiên có tầng văn hoá tương đối dày, chứng tỏ con người đã định cư ở đây khá lâu dài. Đồng bằng ven sông Mã là địa bàn khai thác nghề trồng lúa nước của họ. Địa bàn cư trú ấy với điều kiện trình độ chế tác công cụ phát triển đã đưa sản xuất nông nghiệp lên vị trí hàng đầu trong nền kinh tế của cư dân Cồn Chân Tiên. Cũng như cư dân văn hoá Phùng Nguyên, Hoa Lộc, các bộ lạc nguyên thuỷ đôi bờ sông Mã đang dần dần chuyển sang chế độ công xã thị tộc phụ quyền và điều quan trọng hơn cả, khi đối chiếu, so sánh với kết quả nghiên cứu các giai đoạn phát triển sau này ở các di chỉ khảo cổ học khu vực đồng bằng sông Mã, sông Chu, nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng cư dân các bộ lạc Cồn Chân Tiên là nhóm đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang của các vua Hùng.

2. Thanh Hóa trong trung kì thời đại đồng thau: Giai đoạn Đông Khối

            Di chỉ khảo cổ học Đông Khối thuộc làng Đông Khối, xã Đông Cương (Đông Sơn), được khai quật năm 1960. Gần đây, nhờ kết quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ khảo cổ thời đại đồng thau ven đôi bờ sông Mã, các nhà nghiên cứu đã xác định Đông Khối là di chỉ tiêu biểu cho giai đoạn phát triển tiếp theo giai đoạn Cồn Chân Tiên ở lưu vực sông Mã, có niên đại trung kì thời đại đồng thau tương đương với giai đoạn Đồng Đậu ở đồng bằng Bắc Bộ. Thuộc giai đoạn này còn có di chỉ Bái Man, lớp dưới di chỉ Cồn Cấu (xã Đông Lĩnh) và lớp dưới di chỉ Đồng Ngầm (xã Đông Tiến) huyện Đông Sơn.

            Điểm đáng chú ý đầu tiên là kĩ thuật chế tác công cụ đá của cư dân các bộ lạc giai đoạn này đã không chỉ kế thừa trực tiếp kĩ thuật của cư dân Cồn Chân Tiên, mà họ còn đưa nghề chế tác đá phát triển thành kĩ nghệ, đạt tới đỉnh điểm trong thời tiền sử và sơ sử xứ Thanh. Tại di chỉ Đông Khối, ngày nay vẫn còn rất nhiều những phác vật, phế vật, mảnh tước v.v…, có chỗ chất đầy, ken dày trên những bờ ruộng, cánh đồng sát chân núi Voi, rộng hàng chục héc ta. Điều này cho thấy hẳn xưa kia, khoảng 3.000 năm trước đây, Đông Khối là một trung tâm chế tác công cụ đá rất phong phú và nhộn nhịp. Trong bộ sưu tập công cụ bằng đá ở Đông Khối, rìu và bôn tứ giác có tiết diện hình chữ nhật hoặc vuông chiếm ưu thế tuyệt đối. Hình dáng của chúng khá phong phú: rìu có loại hình thang vuông, hình chữ nhật; bôn cũng có hai loại: loại lưỡi mỏng (chỉ độ 1 cm) và loại lưỡi rất dày, có mặt cắt hình gần vuông, vì vậy có người gọi là búa rìu (loại này chiếm tỉ lệ 22 – 33% ở các di chỉ).

            Nghiên cứu những dấu vết vật chất và bộ di vật, các nhà khảo cổ học cho rằng cư dân các bộ lạc thuộc giai đoạn Đông Khối có trình độ phát triển tương đương giai đoạn Đồng Đậu ở lưu vực sông Hồng. Nền kinh tế sản xuất nông nghiệp của người Đông Khối đã có bước phát triển mới: bên cạnh việc trồng trọt các loại cây cho củ, quả, lúa đã được trồng nhiều hơn, đặc biệt là lúa nếp. Tại Đồng Ngầm, Bái Man đã phát hiện được nhiều mẫu trấu của lúa dạng hạt tròn. Sự phát triển mạnh mẽ của các nghề thủ công làm gốm, chế tác công cụ đá, những dấu tích của lúa, gạo v.v… cho thấy người Đông Khối đã đạt tới trình độ khá cao trong đời sống kinh tế, xã hội.

3. Thanh Hóa thời Bắc thuộc

            Năm 111 TCN, nhà Hán chinh phục Nam Việt và chia thành 9 quận, trong đó nước Âu Lạc cũ trở thành 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân, vùng đất Thanh Hóa nằm gọn trong quận Cửu Chân.

            Trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, qua các triều đại Hán – Tam Quốc, Lưỡng Tấn – Tiền Tống – Tề – Lương – Tùy – Đường, địa danh của miền đất này cũng bao lần thay đổi theo sự thăng trầm của lịch sử. Cùng với số phận chung của cả nước, nhân dân Cửu Chân chịu cảnh sống lầm than cơ cực dưới ách đô hộ của ngoại bang.

II. LỊCH SỬ CON NGƯỜI

1. Thời đồ đá cũ

            Các dấu vết của người nguyên thuỷ – người vượn sớm nhất ở Việt Nam, lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1960 tại núi Ðọ, Thanh Hoá. Do đặc trưng điển hình của hệ thống di tích này, các nhà khảo cổ học cho rằng đã tồn tại một nền văn hoá sơ kì thời đại đồ đá cũ: Văn hoá núi Ðọ. Văn hoá núi Ðọ bao gồm một hệ thống các di tích sơ kì thời đại đồ đá cũ được phát hiện ở Thanh Hoá: Núi Ðọ, núi Nuông, Quan Yên I, núi Nổ.

1.1. Văn hoá núi Đọ

            Nằm trong địa phận hai xã Thiệu Tân và Thiệu Khánh huyện Thiệu Hoá (nay thuộc thành phố Thanh Hóa). Ðây là một hòn núi cao 160m, nằm bên hữu ngạn sông Chu. Người vượn nguyên thuỷ đã sinh sống ở đây, ghè vỡ đá núi để chế tác công cụ. Những công cụ bằng đá mang dấu ấn chế tác bởi bàn tay của họ như mảnh tước, hạch đá, rìu tay… đã được phát hiện ở núi Ðọ khá nhiều. Ngày nay, trên sườn núi Ðọ, hàng vạn mảnh tước (mảnh ghè khi người nguyên thuỷ chế tác công cụ) vẫn còn nằm rải rác, nhất là sườn phía Ðông và phía Tây Nam.

1.2. Núi Quan Yên

            Trên núi Quan Yên, tại địa điểm Quan Yên I (bên sườn Ðông – Ðông Nam), thuộc xã Ðịnh Công, huyện Yên Ðịnh, năm 1978 các nhà khảo cổ cũng đã phát hiện được những vết tích của con người sơ kì thời đại đồ đá cũ. So với núi Ðọ, núi Nuông, mật độ và số lượng hiện vật thu được có ít hơn, nhưng kĩ thuật chế tác các loại hình công cụ ở đây cao hơn, gọi là kĩ thuật của loài vượn sơ kì thời đại đồ đá cũ, đồng thời đây cũng là một loại hình di chỉ – xưởng. Căn cứ vào trình độ kĩ thuật chế tác công cụ, địa hình cư trú và dựa vào những thành tựu mới nhất của các ngành khoa học, các nhà khoa học cho rằng, người vượn nguyên thuỷ văn hoá núi Ðọ là những người vượn đứng thẳng phát triển. Họ sống thành từng bầy, có thủ lĩnh bầy, mỗi bầy bao gồm từ 5-7 gia đình, có khoảng 20 – 30 người. Họ kiếm thức ăn chủ yếu bằng phương thức săn bắn và hái lượm theo bầy đàn người vượn và phân phối sản phẩm công bằng. Ðời sống tinh thần của họ đã khá phong phú: ngoài thì giờ kiếm ăn, có thể họ đã có những trò giải trí trong lúc rỗi rãi.

1.3. Hậu kì thời đại đồ đá cũ – Văn hoá Sơn Vi

            Tại Thanh Hoá, các bộ lạc chủ nhân văn hoá Sơn Vi, theo tình hình hiểu biết hiện nay đã sinh sống trên địa bàn rộng lớn ở vùng núi phía Tây và Tây Bắc của tỉnh. Dấu vết của họ đã được tìm thấy ở các huyện Cẩm Thuỷ, Thạch Thành, Hà Trung, Bá Thước và nhất là cụm di tích ở xã Hạ Trung (Bá Thước).

            – Hang Con Moong: Ðáng chú ý nhất là hang Con Moong – một di tích nằm trong khu vực Vườn Quốc gia Cúc Phương – thuộc xã Thành Yên, huyện Thạch Thành. Di tích này được khai quật năm 1976. Tại đây, người vượn nguyên thuỷ Thanh Hoá đã sinh sống từ hậu kì thời đại đồ đá cũ đến thời đại đồ đá mới. Tầng văn hoá ở Con Moong dầy tới 3,5m với sự tiếp diễn liên tục, không hề có sự ngắt quãng. Tại lớp văn hoá sớm nhất (dưới cùng) ở Con Moong (đã được xác định niên đại bằng phương pháp cacbon phóng xạ C14 cách ngày nay hơn 12.000 năm) các nhà khảo cổ học đã thu được nhiều hiện vật. Ðó là những công cụ bằng đá có hình múi cam, công cụ có rìa lưỡi một đầu, công cụ 1/4 viên cuội, được tạo bằng thủ pháp đập vỡ cuội. Ðó là những chày nghiền, bàn nghiền – những hòn đá không có dấu vết chế tác, chỉ có dấu vết sử dụng bởi một mặt lõm xuống hình lòng máng, được dùng để chà vỏ, nghiền thức ăn thực vật; là những công cụ bằng xương có hình mũi nhọn được chế tạo từ những đoạn xương ống của các loài thú lớn. Xương, răng động vật cũng phát hiện được khá nhiều, gồm xương cốt các loài lửng, tê giác, voi, hươu, nai, hoẵng, baba, rùa vàng… Cũng giống như ở mái đá Ðiều, tầng văn hoá ở Con Moong chứa khá nhiều vỏ trai, ốc núi, ốc suối. Trong lớp văn hoá Sơn Vi ở Con Moong, đã tìm thấy dấu vết của bếp lửa có hình gần tròn, đường kính tới 4m, bên cạnh mùn thực vật và hạt trám. Trong lớp văn hoá Sơn Vi ở Con Moong, đã phát hiện được 3 mộ táng gồm 5 cá thể (có 2 mộ song táng) đã xác định được 1 nam, 1 nữ (khoảng 50 – 60 tuổi), hai trẻ em và 1 người không xác định được giới tính. Tất cả các hài cốt được chôn theo tư thế nằm nghiêng co bó gối, được bôi thổ hoàng, có một mộ chôn theo công cụ nạo. Như vậy, vào hậu kỳ thời đại đồ đá cũ, cùng với văn hoá Sơn Vi ở phía Bắc, chủ nhân của văn hoá Sơn Vi Thanh Hoá đã cư trú trên một vùng rộng lớn phía Bắc, Tây bắc của tỉnh và tương đối tập trung. Theo những phát hiện mới nhất của khảo cổ học, vùng Bá Thước, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành trong hậu kì thời đại đồ đá cũ có thể được coi là trung tâm của xứ Thanh ngày nay. Trong thời đại đồ đá cũ, cư dân nguyên thuỷ đã sinh sống trên địa bàn Thanh Hoá. Trong hàng chục vạn năm ấy, do điều kiện địa lí, do quá trình kiến tạo địa chất, nhiều đợt biển tiến, biển lùi đã đẩy người vượn nguyên thuỷ văn hoá núi Ðọ tiến lên chiếm lĩnh vùng phía Tây – Tây bắc, những chủ nhân văn hoá Sơn Vi ở Thanh Hoá đã cùng các bộ lạc khác trên đất nước Việt Nam, trong quá trình đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên để sinh tồn, đã tạo nên một nền văn hoá mới, làm phong phú thêm thời đại đồ đá mới ở Việt Nam. Ðó là quá trình phát triển của xã hội người nguyên thuỷ trên đất Thanh Hoá.

2. Thời đại đồ đá mới

            Nối tiếp văn hoá Sơn Vi là văn hoá Hoà Bình (lấy tên tỉnh Hoà Bình – nơi phát hiện những di tích đầu tiên của nền văn hoá này). Về niên đại, văn hoá Hoà Bình cách ngày nay 11.000 năm; trên đất Thanh Hoá, trung tâm dân cư lúc này vẫn tập trung ở địa bàn vùng núi phía Tây, thuộc các huyện Cẩm Thuỷ, Bá Thước, Thạch Thành, Ngọc Lặc… Họ thường sống trong các hang động, các núi đá vôi rộng, thoáng đãng và gần sông, suối lớn. Các nhà khảo cổ học đã xác định họ chính là hậu duệ trực tiếp của chủ nhân văn hoá Sơn Vi ở Thanh Hoá và chính họ – cư dân văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá, đã tiếp tục phát triển, làm nên văn hoá Bắc Sơn sau này.

2.1. Những vết tích của văn hoá Hoà Bình.

            – Hang Con Moong (xã Thành Yên – huyện Thạch Thành): Ðây là một hang rộng, nền hang cao hơn 40m so với chân núi hiện tại và rộng hơn 300 m2. Người nguyên thuỷ cư trú trên khoảng diện tích 100 m2 tại cửa hướng Tây Nam, liên tục từ thời văn hoá Sơn Vi đến văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn. Các nhà khảo cổ đã thu được rất nhiều hiện vật nằm lẫn trong đống vỏ nhuyễn thể và mùn thực vật mà người nguyên thuỷ đã thải ra trong quá trình sinh hoạt. Về công cụ bằng đá: cư dân văn hoá Hoà Bình ở Con Moong vẫn giữ truyền thống văn hoá Sơn Vi: dùng đá cuội để chế tác công cụ, nhưng kỹ thuật chế tác công cụ của họ rất phát triển, kể cả loại hình lẫn phương pháp chế tác. Công cụ kiểu Xumatơra(3) (Sumatralithe) có hình bầu dục hay hình hạnh nhân, lưỡi được tạo xung quanh rìa hòn cuội bằng cả thủ pháp ghè tỉa, để có độ sắc bén hơn; có chức năng sử dụng rất đa dạng: có thể dùng cắt, chặt, nạo….từ thịt, xương thú đến tre, nứa, gỗ. Rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn trong bộ sưu tập công cụ của họ ở Thanh Hoá; người ta thường chặt cuội hoặc chặt đôi những công cụ hình bầu dục để tạo rìu ngắn; chức năng của rìu ngắn cũng rất đa dạng. Rìu dài hình hạnh nhân hay hình bầu dục của cư dân văn hoá Hoà Bình có nhiều khả năng được sử dụng như những chiếc cuốc đá. Mảnh tước ở Con Moong có số lượng không nhiều, nhưng phần lớn đã được gia công để tạo thành công cụ nạo, dao đá, với rìa đá rất sắc. Chày nghiền, bàn nghiền cũng là những công cụ được tìm thấy khá nhiều. Chủ nhân Con Moong cũng chế tác và sử dụng công cụ bằng xương thú với kỹ thuật chọn nguyên liệu và chế tác phát triển khá cao: người ta chỉ lựa chọn xương ống của động vật có vú – loại xương có cấu tạo sợi nhiều hơn cấu tạo xốp – để chế tác công cụ và đã mài nhẵn đầu. Thức ăn rất phong phú, đa dạng: trong tầng văn hoá, các nhà khảo cổ học đã thu được 832 vỏ nhuyễn thể như trùng trục, trai, ốc… và các loại xương thú rất phong phú. Chôn người chết theo tư thế nằm nghiêng chân co như cư dân văn hoá Sơn Vi giai đoạn trước, nhưng họ đã chèn đá hộc, rải đá dăm quanh mộ để bảo vệ và đều chôn theo công cụ.

            – Di chỉ mái đá Ðiều và các di chỉ khác: Cũng như ở Con Moong, mái đá Ðiều là một di chỉ chứa đựng nhiều lớp văn hoá thuộc các thời đại đồ đá khác nhau. Niên đại lớp văn hóa Hoà Bình của Mái đá Ðiều là 8.200 ± 70 năm, cách ngày nay. Các nhà khảo cổ học đã thu được rất nhiều công cụ bằng đá đặc trưng kiểu Hoà Bình. Ðáng chú ý là rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn. Chày nghiền, bàn nghiền cũng chiếm tỉ lệ đáng kể. Riêng công cụ bằng mảnh tước, ở một số địa điểm đã xuất hiện kĩ thuật mài đá. Ở các di chỉ mái đá Bát Mọt, hang Mộc Trạch, hang To đã tìm được nhiều mảnh vỏ trai xà cừ lớn mà công dụng có thể được chủ nhân văn hoá Hoà Bình sử dụng như những lưỡi dao, nạo để vót tre nứa và nạo thịt thú. Một đặc điểm chung nữa là tại các di chỉ văn hoá này, tầng văn hoá đều rất dày, chứng tỏ sự cư trú lâu dài của con người như Con Moong: 3,5m, mái đá Ðiều: gần 4m, mái đá Làng Bon: 3,7m, hang Ðiền Hạ III: 3,8m, mái đá chòm Ðồng Ðông: 3,5m; chứa đựng một khối lượng vỏ nhuyễn thể rất lớn lẫn trong lớp đất màu nâu hoặc đen chứa mùn thực vật. Cư trú trong các hang động, mái đá tương đối cao, có nơi rất cao (như Con Moong), cư dân Hoà Bình ở Thanh Hoá chắc rằng, ngoài những công cụ bằng đá, đã sử dụng một số lượng không ít các công cụ và đồ dùng được chế tác từ các loại cây cối, nhất là tre, nứa, song, mây… Ðể đựng các loại nhuyễn thể lượm nhặt từ sông, suối đem về nơi cư trú. Các nhà khảo học đã phát hiện được nhiều mộ táng của người Hoà Bình ở Thanh Hoá. Ðã tìm thấy ở hang Lộc Thịnh, mái đá Làng Bon, mái đá làng chòm Ðồng Ðông… các di cốt, xương, răng bị vỡ, mủn. Ðáng chú ý nhất là các di tích Con Moong (2 mộ), mái đá Ðiều (13 mộ), mái đá Mộc Long (5 mộ), hang Chùa (3 mộ). Phần lớn những mộ này còn nguyên vẹn và cho thấy tư thế chôn nằm nghiêng co bó gối, bôi thổ hoàng, kè đá giữa mộ và chôn theo hiện vật làm đồ tuỳ táng, là cách thức mai táng phổ biến trong tập tục của người Hoà Bình. Chủ nhân của văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá đã tiến tới tổ chức công xã thị tộc mẫu hệ. Các công xã thị tộc thường cư trú trong một vùng đất nhất định. Trong mỗi hang động là một thị tộc cư trú bao gồm nhiều gia đình nhỏ với vợ chồng, con cái. Dấu tích bếp lửa ở giai đoạn được tìm thấy có quy mô nhỏ hơn giai đoạn trước và số lượng cũng tăng hơn. Kinh tế hái lượm ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong đời sống, bởi vậy, vai trò và vị trí của người phụ nữ ngày càng được nâng cao. Với môi trường sinh sống gần sông, suối, khai thác thức ăn đa nguồn, định cư lâu dài, cư dân văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá đã chuyển từ cuộc sống hái lượm – săn bắt sang thu hoạch định kỳ theo mùa. Ðó là mầm mống sơ khai của nền kinh tế sản xuất nông nghiệp: người ta bắt đầu chăm sóc và trồng trọt một số loài cây có củ, quả như rau, đậu, bầu bí… và thuần dưỡng chó. Những quan niệm tôn giáo sơ khai, mầm nghệ thuật – sự tìm kiếm cái đẹp cũng nảy sinh trong quá trình lao động kiếm sống và vui chơi giải trí. Ðó là những thành quả sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã hội của cư dân văn hoá Hoà Bình xứ Thanh và với thành quả ấy, họ đã thực sự góp phần vào cách mạng đá mới. Sau hơn 70 năm phát hiện và nghiên cứu văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam cũng như ở Thanh Hoá đã cho thấy một cái nhìn tổng quan về lịch sử Thanh Hoá thời đại đồ đá mới: đó là sự phát triển liên tục, nội tại từ cư dân văn hoá núi Ðọ đến Sơn Vi và văn hoá Hoà Bình.

2.2. Đồ gốm xuất hiện và cư dân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh hoá:

            Tại Thanh Hoá, dấu vết văn hoá Bắc Sơn đã được phát hiện trong các lớp văn hoá muộn của các di chỉ mái đá Thạch Sơn, mái đá chòm Ðồng Ðông, hang Lộc Thịnh, mái đá Ðiều, hang Mỹ Tế, mái đá làng Bon, làng Ðiền Hạ III… và đặc biệt rõ ở hang Con Moong- thuộc lớp trên cùng, có niên đại khoảng 7.000 năm cách ngày nay. Chủ nhân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá cũng như ở nơi khác, đã đưa kỹ thuật chế tác công cụ bằng đá đến trình độ cao: họ đã biết và phổ biến kỹ thuật mài đá. Ðã tìm thấy trong các di chỉ Bắc Sơn ở Thanh Hoá những bàn mài bằng sa thạch bên cạnh rất nhiều chày nghiền, bàn nghiền. Những chiếc rìu mài lưỡi Bắc Sơn ra đời đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nghề nông đã thai nghén từ văn hoá Hoà Bình. Nhưng thành tựu kĩ thuật lớn nhất của cư dân văn hoá Bắc Sơn là phát minh ra đồ gốm. Mặc dù còn rất thô sơ về chất liệu, hình dáng, hoa văn, độ nung còn thấp, nhưng cũng đã tạo cho nền kinh tế sản xuất sơ khai của chủ nhân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá phát triển hơn hẳn nền kinh tế sản xuất nông nghiệp của văn hoá Hòa Bình. Tuy nhiên kinh tế sản xuất chưa thể chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống của người Bắc Sơn. Hái lượm và săn bắn vẫn đóng vai trò chính trong đời sống của họ: trong các hang động nơi họ cư trú, tầng văn hoá vẫn chất đầy vỏ nhuyễn thể và xương cốt động vật (lớp văn hoá Bắc Sơn ở Con Moong – lớp trên cùng- có độ dày từ mặt đất từ 0,2m – 1,2m, đã thu được tới 60m3 vỏ nhuyễn thể). Xã hội người nguyên thuỷ văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá đã phát triển chế độ thị tộc mẫu hệ.

            Cùng với sự phát triển của nền kinh tế sản xuất, người nguyên thuỷ văn hoá Bắc Sơn ngày càng lệ thuộc vào thành quả của hoạt động hái lượm và chăm sóc cây trồng. Ðó là những công việc chủ yếu do phụ nữ đảm nhận và ngày càng nắm vị trí chủ đạo trong kinh tế; vai trò người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao.

2.3. Cư dân văn hoá Đa Bút chiếm lĩnh đồng bằng và phát triển nông nghiệp trồng lúa nước.

            Vào hậu kì thời đại đồ đá mới, cách ngày nay khoảng 6.000 – 7.000 năm, sau nhiều đợt biển tiến, biển lùi, sang kỷ Hôlôxen, đồng bằng sông Mã đã hình thành tương đối ổn định với tài nguyên phong phú, đầy hấp dẫn, đã lôi cuốn chủ nhân văn hoá Hoà Bình – Bắc Sơn ở vùng núi rời khỏi các hang động – nơi cư trú hàng ngàn năm, tiến xuống khai phá miền đồng bằng trước chân núi. Nền nông nghiệp trồng lúa nước ra đời. Cùng với dân cư văn hoá Hạ Long ở phía Bắc, văn hoá Quỳnh Văn ở phía Nam, người nguyên thuỷ ở Thanh Hoá làm nên một nền văn hoá Ða Bút độc đáo, làm phong phú thêm diện mạo văn hoá của các bộ lạc nguyên thuỷ sinh sống trên toàn cõi Bắc Việt Nam.

            Văn hoá Ða Bút: Theo hiểu biết hiện nay, văn hoá Ða Bút gồm hệ thống các di chỉ Ða Bút (xã Vĩnh Tân), Bản Thuỷ (xã Vĩnh Thịnh), làng Còng (xã Vĩnh Hưng) thuộc huyện Vĩnh Lộc, cồn Cổ Ngựa (xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung) và gò Trũng (xã Phú Lộc, huyện Hậu Lộc). Khai quật và nghiên cứu hệ thống di chỉ này, các nhà khảo cổ học đã chứng minh rằng chủ nhân của văn hoá Ða Bút theo quá trình lùi dần của biển, ngày càng chiếm lĩnh vùng đồng bằng ven biển Thanh Hoá. Kết quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ văn hoá Ða Bút cho thấy cư dân nguyên thuỷ giai đoạn này đã bước vào thời kỳ công xã thị tộc mẫu hệ phát triển. Nhờ nông nghiệp lúa nước được đẩy mạnh, đời sống đã ổn định, dân số tăng nhanh, đồng thời các nghề thủ công phục vụ sản xuất nông nghiệp và đánh cá được mở rộng.

III. LỊCH SỬ DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC

1. Cuộc khởi nghĩa của Chu Ðạt (156 – 160)

            Năm 156, Chu Ðạt, người huyện Cự Phong (nay là thôn Phú Hào, xã Thọ Phú, huyện Triệu Sơn) chiêu mộ dân binh vây đánh huyện sở Cự Phong (vùng đất các huyện Nông Cống, Quảng Xương, Tĩnh Gia và Như Xuân, Như Thanh ngày nay) giết chết huyện lệnh rồi tiến công Tư Phố, giết chết thái thú nhà Ðông Hán, lực lượng có đến 5.000 người, quản trị Cửu Chân được 4 năm từ năm 156 đến năm 160.

 2. Cuộc khởi nghĩa bà Triệu (Triệu Thị Trinh) năm 248

            Từ năm 220, Cửu Chân thuộc quyền cai trị của Ðông Ngô (một trong 3 nước thời Tam Quốc), trong xứ không kể Nghệ An, Hà Tĩnh, có chừng 3 vạn hộ. Bà Triệu tức Triệu Thị Trinh, người Quân Yên (huyện Yên Ðịnh), 20 tuổi; lập căn cứ ở Núi Nưa (Triệu Sơn), hội quân với 3 anh em họ Lý ở Bồ Ðiền (tức Phú Ðiền, huyện Hậu Lộc) cùng tiến đánh quận sở Tư Phố đại thắng. Hầu hết các huyện lỵ, thành ấp ở Cửu Chân, Cửu Ðức, Nhật Nam (2 quận nay là vùng Nghệ Tĩnh – Quảng Bình) bị nghĩa quân đánh hạ, các thái thú, huyện lệnh và huyện trưởng bị giết… nền đô hộ của nhà Hán ở Giao Châu hơn 330 năm bị lật đổ.

3. Thời nước Vạn Xuân, Lý Nam Ðế (542 – 556)

            Mùa xuân 542, Lý Bí – mẹ đẻ là người Cửu Chân, khởi nghĩa thắng lợi, lập ra nước Vạn Xuân xưng là Lý Nam Ðế. Nhà Lương đàn áp, Lý Thiên Bảo là anh ruột Lý Bí rút về Dã Năng (huyện Bá Thước ngày nay) xưng là Ðào Lang Vương tiếp tục kháng chiến. Sau đó Thiên Bảo mất, Lý Phật Tử lên thay tức là Hậu Lý Nam Ðế. Năm 556, Lý Phật Tử đánh nhau với Triệu Việt Vương – Triệu Quang Phục – người tiếm ngôi của Lý Bí và là người đánh bại quân đội nhà Lương ở đầm Dạ Trạch (tỉnh Hưng Yên ngày nay).

4. Cuộc khởi nghĩa của Lê Ngọc (đầu thế kỷ VII)

            Lê Ngọc (còn gọi là Lê Cốc) cùng với 4 người con lật đổ quan cai trị của nhà Tuỳ (Trung Quốc) đóng ở Ðông Phố (tức Ðồng Pho, xã Ðông Hoà, huyện Ðông Sơn ngày nay), gọi là kinh đô Trường Xuân, tự quản Cửu Chân chống lại nhà Ðường cho đến đầu thế kỷ VI. Ðến thế kỷ VII, Cửu Chân gồm 6 huyện có 16.100 hộ (quận Giao Chỉ có 30.000 hộ) khoảng 84.000 nhân khẩu, thuộc xứ An Nam (tên An Nam thay cho Giao Châu bắt đầu từ đây). Quận sở là Ðông Phố (tức là Ðồng Pho). Năm 759, quân Mã Lai cướp phá Châu Ái (tên gọi Cửu Chân từ năm 523) bị quan cai trị là Trương Bá Nghi tiêu diệt. Năm 797, quân Mã Lai lại cướp phá Châu Ái nữa, xây cả thành, lập nước, nhưng bị quan cai trị là Trương Châu đánh đuổi, san phẳng thành trì thu hồi mọi của cải. Thế kỷ IX, Nho giáo, Lão giáo và Phật giáo đã rất phát đạt ở Châu Ái. Ðạo Nho có anh em Khương Công Phụ, đỗ Tiến sỹ làm quan đến Tể tướng triều đình nhà Ðường, đạo Lão biến các hang động đẹp nhất ở khắp Vĩnh Lộc, Hà Trung, Nga Sơn làm nơi tu tiên và đạo Phật có các Ðại hoà thượng như Trí Hành và Ðại Thăng Ðăng sang tận Trung Quốc để hành đạo.

5. Thời Dương Ðình Nghệ (? – 937)

            Dương Ðình Nghệ, chính khách quan trọng nhất thế kỷ X của lịch sử Việt Nam, thu hút hơn 3.000 người làm vây cánh ở làng Giàng, Tư Phố (nay là đất các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh, thành phố Thanh Hóa), trong đó có Ngô Quyền, Ðinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Phạm Cự Lạng… Tháng 3 năm 931, Dương Ðình Nghệ đánh đuổi thứ sử Lý Tiến của nhà Nam Hán (Trung Quốc), tiêu diệt viện binh Nam Hán, tự lập làm tiết độ sứ, chấm dứt vĩnh viễn nền đô hộ hơn 1.000 năm của người Trung Quốc ở Việt Nam. Từ Dương Ðình Nghệ, Việt Nam xác định lại được quốc thống của một đất nước độc lập hoàn toàn.

6. Thời Ngô Quyền (938 – 968)

            Mùa đông năm 938, Ngô Quyền đem quân đội Cửu Chân tiến ra Bắc tiêu diệt Kiều Công Tiễn – kẻ phản bội họ Dương ở Ðại La (Hà Nội ngày nay), rồi cản phá quân Nam Hán là Lưu Hoàng Thao trên sông Bạch Ðằng, lên ngôi vua tức Ngô Vương Quyền. Thời 12 sứ quân, Cửu Chân nằm trong vòng kiểm soát của Ðinh Bộ Lĩnh ở miền Ðông và của Ngô Xương Xí – cháu nội Ngô Quyền, ở Bình Kiều (đất vùng Triệu Sơn ngày nay) tức miền Tây lãnh thổ.

7. Thời Ðại Cồ Việt – Tiền Lê (968 – 1009)

            Năm 979 – 980, Lê Hoàn trấn áp xong quân chống đối của Nguyễn Bặc và Ðinh Ðiền ở vùng sông Tống (vùng đất huyện Hà Trung ngày nay) lên ngôi vua. Năm 981, ông đánh tan quân xâm lược nhà Tống, và năm 982 đánh thắng quân Chiêm Thành. Năm 982, nhà vua cho nạo vét các sông ngòi, đào kênh nối liền hệ thống sông Mã, sông Chu, sông Yên, sông Bạng cho đến vùng đất tỉnh Nghệ An ngày nay, thành một đường giao thông thuận tiện đầu tiên ở Cửu Chân và ở cả đất nước Ðại Cồ Việt. Người chỉ huy đào các kênh này là Ðào Lang, làng Bùi Ðỉnh (xã Yên Trung huyện Yên Ðịnh ngày nay). Từ năm 999 đến năm 1005, các vua thời Tiền Lê phải trực tiếp điều quân bình định miền viễn Tây Thanh Hoá nhưng chưa ổn.

8. Thời Nhà Lý (1010 – 1225)

             Từ đầu triều đại nhà Lý 1009 đến 1028, lúc đầu Lý Thái tổ đặt tên gọi Trại Ái Châu. Đến năm 1029, dưới triều vua Lý Thái Tông, năm Thiên Thành thứ hai đặt tên Phủ Thanh Hóa. Từ đó các triều đại tiếp theo lúc gọi phủ, lúc gọi lộ, lúc gọi trấn và gọi là tỉnh Thanh Hóa vào thời nhà Nguyễn.

            Tên Hóa có lúc lại đổi thành Hoa, rồi lại trở lại Hóa; đến đời vua Thiệu Trị, triều đại nhà Nguyễn (1841), nhà vua có một chỉ dụ đại ý nói: Thanh Hóa là một tên cổ, do các triều đại trước đã định danh, vì vậy không có lý do gì đổi tên này, mà phải giữ nguyên tên gọi tỉnh Thanh Hóa.

            Ngày 12/7/2017, tại kỳ họp thứ ba, HĐND tỉnh khóa XVII đã quyết nghị lấy năm 1029 là năm ra đời Danh xưng Thanh Hóa với tư cách  đơn vị hành chính trực thuộc Trung ương. Sự kiện lịch sử này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, tạo sự phấn khởi, lan tỏa trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân các dân tộc trong tỉnh.  

9. Thời nhà Trần (1226 – 1400)

            Tháng giêng năm Thiệu Long thứ 15 nhà Trần (năm 1272), Lê Văn Hưu, người làng Bồi Lý (xã Thiệu Trung, Thiệu Hoá ngày nay) dòng dõi Lê Lương, soạn xong Ðại Việt sử ký toàn thư – bộ sử hoàn chỉnh đầu tiên của nước ta.

            Lê Văn Hưu được tôn là ông tổ ngành sử học của Việt Nam. Ðầu năm 1285, kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ 2, ở Thanh Hoá, quân đội nhà Trần do Trần Kiên, Trần Nhật Duật, Trần Quang Khải chỉ huy chống giữ cầm chân giặc, ở các điểm Yên Duyên (xã Quảng Hùng), núi Ðá Chẹt (Quảng Lĩnh), Văn Trinh (Quảng Hợp), Bố Vệ (thành phố Thanh Hoá), Phú Tân (Hà Toại), Nga Lĩnh, Quang Lộc, Liên Lộc, chiến sự rất dữ dội. Sau khi tướng Nguyên: Toa Ðô tiến được ra sông Hồng thì Hưng Ðạo Vương lại đem 2 vua Trần rút vào Thanh Hoá (ở các vùng Nga Sơn, Hà Trung, Thạch Thành ngày nay) để bảo toàn đầu não. Ðến tháng 5 năm 1285, từ Thanh Hoá, Hưng Ðạo Vương tiến quân ra Bắc quét sạch quân Nguyên Mông khỏi bờ cõi Ðại Việt. Năm 1370, dòng họ Lê ở Ðại Lại (Ðò Lèn, Hà Ngọc huyện Hà Trung) do Lê Liêm dẫn đầu hội quân Thanh Hoá tiến ra Thăng Long phế bỏ người tiếm ngôi Dương Nhật Lễ, lập lại nhà Trần bằng vua Trần Phủ – tức Trần Nghệ Tôn – nhà Trần từ đây thiên vào Thanh Hoá. Năm 1378, quân Chiêm Thành vào cướp Thanh Hoá bị quan quân nhà Trần trấn giữ đánh bại. Năm 1380, quân Chiêm Thành do đích thân vua Chế Bồng Nga chỉ huy lại vào cướp Thanh Hoá bị Hồ Quý Ly đánh bại ở cửa sông Ngu (tức Lạch Trường, Hoằng Trường ngày nay). Năm 1382, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá, bị Nguyễn Ða Phương đánh bại ở cửa Thần Ðầu (tức Thần Phù, huyện Nga Sơn ngày nay). Năm 1389, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá, Hồ Quý Ly chống không nổi phải bỏ chạy. Quân Chiêm Thành tiến ra Bắc. Năm 1390, tướng chỉ huy nhà Trần ở Thanh Hoá là Trần Khát Chân cản phá được quân Chiêm Thành, giết chết Chế Bồng Nga, chấm dứt vĩnh viễn sự quấy rối của các vua Chiêm Thành.

10. Thời nhà Hồ (1400 – 1407)

            Mùa xuân năm 1397, xây dựng xong thành đá Tây Giai ở động Thiên Tôn (nay là đất xã Vĩnh Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc). Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua ở thành này, thay nhà Trần, đổi tên nước là Ðại Ngu (nghĩa là rất an vui và cùng lo việc nước), bỏ kinh đô Thăng Long, lấy thành đá mới làm quốc đô gọi là Tây Ðô. Nhà Hồ phát hành tiền giấy thay cho tiền đồng đúc từ năm 1396, đến năm 1400 định lại giá kim ngạch cho thêm chặt chẽ. Năm 1402, nhà Hồ hoàn thành việc xây dựng con đường Thiên Lý từ Tây Ðô ra Ðông Quan (tức Thăng Long cũ) và từ Tây Ðô vào Hoá Châu (vùng Quảng Bình ngày nay) dọc đường đặt nhà trạm, phố xá và bưu dịch có hệ thống. Sau một năm chiến đấu ngoan cường nhưng thất bại, năm 1407, nhà Hồ và nước Ðại Ngu mất vào tay quân xâm lược nhà Minh.

11. Cuộc kháng chiến 10 năm chống nhà Minh(1418 – 1428)

            Mùa xuân, tháng Giêng ngày mồng 2 năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi cùng với những người tài giỏi trong cả nước khởi nghĩa ở Mường Chính (nay là huyện lỵ Lang Chánh) tiến về Khả Lam (tức Lam Sơn) bắt đầu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh (Trung Quốc) giải phóng đất nước. Lê Lợi xưng là Bình Ðịnh Vương, người hương Lam Sơn, huyện Lương Giang (nay là xã Xuân Lam, huyện Thọ Xuân). Bình Ðịnh Vương chiến đấu ở Thanh Hoá 6 năm, các trận đánh lớn diễn ra ở Lam Sơn, Mường Một (vùng Bát Mọt, huyện Thường Xuân ngày nay), Mường Chính, Bến Bổng (vùng thượng du sông Âm), Ba Lẫm (vùng Chiềng Lẫm, huyện Bá Thước ngày nay), Kình Lộng (vùng Cổ Lũng, huyện Bá Thước), Úng Ải (vùng đèo Thiết Ống, huyện Bá Thước), Sách Khôi (ở khoảng giữa huyện Bá Thước và huyện Hoàng Long – Ninh Bình và huyện Thạch Thành – Thanh Hoá), Ða Căng (vùng Thọ Nguyên, Thọ Xuân), có trận phía địch có tới 10 vạn quân như ở Kình Lộng. Mùa đông năm 1424, Bình Ðịnh Vương tiến quân vào Nghệ An theo kế sách của Nguyễn Chích. Mùa thu năm 1426, quân khởi nghĩa tiến ra Bắc bao vây Ðông Quan. Ngày 17 tháng 9 năm Bính Ngọ (1426), Bình Ðịnh Vương đến Lỗi Giang (vùng đất các huyện Thạch Thành, Vĩnh Lộc ngày nay) chỉ huy bao vây Tây Ðô. Cuối năm 1426, Bình Ðịnh Vương ra Bắc chỉ huy giải phóng các miền đất Giao Chỉ (Bắc Bộ ngày nay), và vây hãm thành Ðông Quan. Ngày 22 tháng 01 năm Ðinh Mùi (1427), giặc Minh đầu hàng. Mùa xuân năm sau – giặc rút về, đất nước sạch bóng quân thù, thành Tây Ðô lại về Ðại Việt. Ngày 15 tháng giêng năm Mậu Thân (1428), Bình Ðịnh Vương lên ngôi hoàng đế nước Ðại Việt, thủ đô là Ðông Kinh (tức Ðông Quan, thủ đô Hà Nội ngày nay). Cả nước chia làm 3 đạo hành chính lớn, Thanh Hoá thuộc đạo Hải Tây trong số các trấn ven biển Tây Ðô.

12. Thời Lê sơ (1428 – 1516)

            Tháng 11 – Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ về bái yết Sơn Lăng, Lam Sơn, sau 10 năm chiến đấu giành độc lập cho đất nước thắng lợi. Mùa Hè năm Canh Tuất (1430) đổi Tây Ðô làm Tây Kinh và Ðông Ðô (Hà Nội) làm Ðông Kinh. Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Lê Thái Tổ mất, một tháng sau đem về an táng ở Lam Sơn, gọi nơi an táng là Vĩnh Lăng. Tháng 12 năm Quí Sửu (1433) xây dựng điện Lam Sơn (gọi là Lam Kinh). Ngày 7 tháng 01 Giáp Dần (1434), điện Lam Kinh bị cháy (cháy lần thứ nhất). Tháng 9 Mậu Thìn (1448): xây dựng lại Lam Kinh do Thái uý Trịnh Khả chỉ huy. Từ Mậu Ngọ (1438) đến Mậu Tý (1468), 3 lần khơi đào các kênh trong xứ Thanh Hoá. Năm Bính Tý, tháng 4 (1516), Trịnh Duy Sản giết vua Lê Tương Dực, lập vua Lê Chiêu Tông rước về Tây Kinh.

13. Thời Lê Mạc (1516 – 1788)

            Họ Mạc cướp ngôi vua Lê ở Thăng Long. Quan Ðiện tiền tướng quân là Nguyễn Kim – người Hà Trung lập căn cứ ở Thanh Hoá chống lại họ Mạc. Năm 1533 (Quí Tỵ), ông này đưa được Lê Ninh (con vua Chiêu Tông) lên ngôi tức Lê Trang Tông đánh chiếm Tây Kinh (1545) thắng lợi. Ðến năm 1545 (Ất Tỵ), Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh Kiểm lên thay, đánh nhau nhiều trận lớn với họ Mạc ở Thanh Hoá, 17 lần quân Mạc đều thua.

            Từ năm 1533 đến 1592, triều đình nhà Lê ở Thanh Hoá, quản lý đất nước từ Thanh Hoá trở vào, đóng đô ở Yên Trường (nay thuộc Yên Ðịnh) mở nhiều khoa thi, chọn người hiền tài tham gia chính quyền. Năm 1593, Trịnh Tùng – con trai Trịnh Kiểm, kế tục cha tiêu diệt họ Mạc, đưa vua Lê Thế Tông trở lại Thăng Long, lập phủ chúa, Ðàng Ngoài do vua Lê – Chúa Trịnh trị vì từ năm 1599. Trong thời đó, năm 1588, Nguyễn Hoàng (con trai của Nguyễn Kim) vào trấn thủ xứ Thuận Hoá, mở đầu sự nghiệp các Chúa Nguyễn ở Ðàng trong. Năm 1738, Lê Duy Mật (con vua Lê Dụ Tông Duy Ðường) khởi nghĩa chống Chúa Trịnh, địa bàn hoạt động rộng khắp Tây Nam, Tây, Tây Bắc Thanh Hoá và vùng Tây Bắc lẫn Tây Bắc Bộ. Năm 1770, Duy Mật bị con rể phản bội phải thua và tự sát với vợ con, chấm dứt 32 năm chiến đấu. Từ năm 1557 đến 1786, Thanh Hoá bị 10 trận bão lụt lớn xen đại hạn, 15 lần đói to chết nhiều người và 16 cuộc chiến giữa quân Trịnh – Mạc, những tai hoạ ấy không hề có ở thời Lê sơ.

14. Thời Tây Sơn

            Những năm quân Tây Sơn tiến công ra Bắc, quân dân Thanh Hoá do Lê Trung Nghĩa (tức Quận Mãn) chỉ huy chống lại rất dữ dội, Lê Trung Nghĩa tử trận ở Tĩnh Gia.

            Quân đội Tây Sơn phá huỷ hoàn toàn Lam Kinh và kinh đô An Trường biểu tượng của các vua Lê và còn phá huỷ nhiều chùa chiền miếu mạo khác. Năm 1790, con vua Quang Trung là Quang Bàn được cử ra trấn thủ Thanh Hoá. Năm 1792, ông tách ra 2 phủ Trường An và Thiên Quan của Thanh Hoa ngoại thành trấn Thanh Bình (tức Ninh Bình ngày nay).

15. Thời nhà Nguyễn (1802 – 1945)

            Ðặc biệt, triều đình ra lệnh không được đào bới khai mỏ gì ở Thanh Hoá sợ rằng xúc phạm đến oai linh của xứ sở. Nhà Nguyễn xây lăng tổ khai sáng ở Triệu Tường (Hà Trung), thành Triệu Tường lớn thứ 2 sau thành Thanh Hoá, chu vi 182 trượng (1 trượng = 4m), xây dựng lại Lam Kinh để tỏ lòng kính ngưỡng nhà Lê, dựng đền thờ các vua Lê ở Kiều Ðại (TP Thanh Hoá), hằng năm cắt cử các quan lại thay mặt nhà vua cúng tế và tổ chức phòng thủ ở Thanh Hoá rất hùng mạnh gồm một hệ thống 11 đồn binh có quân chính qui trấn giữ 7 bảo súng (pháo đài), 1 đồn thuỷ với 44 khẩu đại bác (súng thần công) mỗi đợt tuyển quân lấy của Thanh Hoá hơn 7.000 người. Ngày 25/11/1885, quân xâm lược Pháp lần đầu tiên tiến công Thanh Hoá. Trước đó, ngày 5 tháng 7, Tôn Thất Thuyết cùng vua Hàm Nghi tuyên bố chọn Thanh Hoá làm thủ phủ kháng chiến, nên tinh thần Cần Vương của quân dân Thanh Hoá rất sôi sục. Vùng rừng núi Thanh Hoá được xây dựng những sơn phòng tích trữ tiền của, lương thảo để chuẩn bị đánh giặc. Ba tháng sau (12/3/1886), nghĩa quân Cần Vương đã tiến đánh quân Pháp đóng ở thành Thanh Hoá. Mùa hè năm 1886, nghĩa quân lập bộ chỉ huy kháng chiến toàn Thanh Hoá do Tống Duy Tân đứng đầu và lập chiến khu ở Ba Ðình (Nga Sơn). Từ 18/12/1887, chiến sự dữ dội nhất giữa quân Việt Nam và Pháp đã nổ ra ở Ba Ðình. Quân Pháp phải tập trung trên địa bàn một số xã ở đây lượng binh lính lớn nhất so với toàn quốc (6.000 người trong một trận) để chiến đấu và bị thiệt hại nặng nề. Cuối cùng vì không được tiếp ứng như kế hoạch dự kiến, nghĩa quân do Ðinh Công Tráng chỉ huy đã rút lui an toàn khỏi các chiến luỹ. Ngày nay quảng trường trọng đại nhất của đất nước mang tên chiến khu này, đó là quảng trường Ba Ðình lịch sử ở thủ đô Hà Nội. Các cuộc chiến đấu chống quân đội Pháp ở Thanh Hoá đến giữa năm 1895 mới chấm dứt cùng với hàng ước của nhà Nguyễn. Thanh Hoá và các tỉnh miền Trung Việt Nam vẫn nằm trong nền độc lập hạn chế của nhà Nguyễn không bị Pháp cai trị trực tiếp. Thực tế chính quyền thuộc địa Pháp chỉ cai quản địa phận thị xã Thanh Hoá được thành lập ngày 12/7/1899 ở khu đất phía Ðông thành Thanh Hoá mà thôi. Năm 1918, chế độ thi cử tuyển hiền tài, kiểu Nho giáo ở Thanh Hoá mới bãi bỏ. Thanh Hoá bắt đầu hình thành xã hội phong kiến nửa thuộc địa hiện đại hoá.

16. Thời hiện đại

            Các năm 1926 – 1927, các tổ chức cách mạng đầu tiên ở Thanh Hoá ra đời. Ngày 25/6/1930, chi bộ Ðảng Cộng sản đầu tiên thành lập ở làng Hàm Hạ (thuộc xã Ðông Tiến, huyện Ðông Sơn), và ngày 29/7/1930, đã thành lập Ðảng bộ tỉnh, Bí thư Tỉnh uỷ đầu tiên là đồng chí Lê Thế Long.

Tháng 9/1942, Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hoá thành lập. Ngày 24/7/1945, nhân dân huyện Hoằng Hoá giành chính quyền huyện thắng lợi. Ngày 19/8/1945, nhân dân thành phố Thanh Hoá và một số huyện tiến hành tổng khởi nghĩa thắng lợi. 4 ngày sau, cách mạng thành công trên toàn tỉnh. Ngày 23/8/1945, chính quyền cách mạng tỉnh Thanh Hoá ra mắt đồng bào ở thị xã Thanh Hoá. Ngày 2/9/1945, Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Cùng với cả nước, lịch sử Thanh Hoá bước vào thời kỳ phát triển mới. Trong thời đại phong kiến, người dân Thanh Hoá đã ghi lại những mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước, mở nước và giữ nước của cả dân tộc Việt Nam. Thanh Hoá là nơi phát tích của các vương triều: Tiền Lê, Hậu Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, triều Nguyễn. Trong sự nghiệp cách mạng ngày nay, người dân xứ Thanh cũng góp phần xứng đáng đối với cả nước để xây dựng quê hương mình nhanh chóng trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh./.

(Ban Biên tập - Sưu tầm và biên soạn)

Thổ Âm Thổ Ngữ Của Người Thanh Hóa

 

Thổ âm Thổ ngữ của người Thanh Hóa

Thanh Hóa là một vùng văn hóa, trong đó ngôn ngữ người Việt, thành phần dân tộc chủ thể rất giàu sắc thái địa phương, nhưng chưa có một công trình nghiên cứu khoa học đầy đủ và sâu sắc.

Sách “Địa chí văn hóa xã hội Thanh Hóa” cũng chỉ dành cho “lời ăn tiếng nói” người xứ Thanh số trang ít ỏi với nội dung sơ sài. Các sách Địa chí huyện Hà Trung, Địa chí huyện Thọ Xuân, chú ý đề cập vấn đề “thổ âm – thổ ngữ”, nêu rõ sắc thái địa phương, tuy nhiên chỉ giới hạn phạm vi trong huyện.

Thổ âm – thổ ngữ Thanh Hóa là giọng nói và lời nói mang tính địa phương của người Thanh Hóa. Người Thanh Hóa ở đây là người Việt cư trú trên đất Thanh Hóa. Và, Thanh Hóa, chúng ta đều biết, một vùng đất lịch sử khá lâu đời: thời Hùng vương là bộ Cửu Chân, thời Bắc thuộc là quận Cửu Chân bên cạnh quận Giao Chỉ, thời phong kiến tự chủ là Châu Ái, lộ, trấn Thanh Hoa rồi tỉnh Thanh Hóa.

Về địa lý, Thanh Hóa được đóng khung bởi ba bề núi, một mặt biển, đèo Ba Dội (Tam Điệp) mở cửa ra đồng bằng Bắc bộ bao la, khe Nước Lạnh (Hàn Khê) thông lối vào dải đất dằng dặc miền Trung. Nhìn vào bản đồ lịch sử – địa lý Việt Nam cận hiện đại, Thanh Hóa giống khu vực “đệm” ở giữa miền Bắc với miền Trung. Một số học giả người Pháp thời trước muốn đem Thanh Hóa nhập vào Bắc kỳ, dựa vào ngôn ngữ và khí hậu, để tách Thanh Hóa khỏi Trung kỳ “trực trị” của triều đình Huế, thể hiện kín đáo một quan điểm mang ý đồ chính trị, vì bấy giờ Bắc kỳ là đất bảo hộ của Pháp. Mất Thanh Hóa, nhà Nguyễn mất một hậu phương rộng lớn, kho nhân, tài, vật lực dồi dào, mất luôn chỗ dựa tinh thần đất tổ quê cha. Nhìn chung, người ta đều thấy Thanh Hóa như một nước Việt Nam thu nhỏ, có rừng, biển, có trung du, đồng bằng, núi liền núi, sông liền sông, nhiều thành phần dân tộc anh em cùng cư trú, đoàn kết thân ái, cần kiệm sáng tạo, chiến đấu dũng cảm… Trong lịch sử chưa bao giờ bị chia tách, không thể chia tách. Tính ổn định về lịch sử, địa lý và tính bền vững của cư dân bản địa người Việt Cửu Chân (xuất hiện từ thời Hùng vương và có thể xa xưa hơn nữa) là cơ sở để Thanh Hóa hình thành một kiểu lời ăn tiếng nói giàu sắc thái thổ âm – thổ ngữ. Trong tiến trình lịch sử, nhiều người từ đồng bằng sông Hồng di cư vào, từ lưu vực sông Lam chuyển ra, dĩ nhiên họ đều mang theo lời ăn tiếng nói quê hương mình, nhưng chỉ qua một vài đời, không ai còn nhận ra gốc tích. Ngược lại, người Thanh Hóa đi đến phương trời nào của Tổ quốc, dù là Hà Nội với ngôn ngữ được xem là “chuẩn” hay những miền quê Nam bộ với ngôn ngữ “lệch”, chất giọng Thanh Hóa vẫn có thể nhận ra, mặc dù họ đã cố gắng “tẩy xóa” dấu vết thổ âm – thổ ngữ xứ Thanh.

Nói đến lời ăn tiếng nói Thanh Hóa, người ta thường nhấn mạnh cụm từ “mô, tê, răng, rứa”, như là điểm đặc trưng nhất. Nhưng “mô, tê, răng, rứa” từ sông Lam vào đến vịnh Hà Tiên, cả Trung – Nam bộ (quá nửa nước) đều nói, chỉ khác nhau dấu giọng (phát âm) nặng nhẹ – sự thực, vùng ngôn ngữ xứ Thanh là một thế giới âm thanh vô cùng phong phú – phong phú đến rối rắm, phức tạp, khác nào ngàn cây nội cỏ, khiến nhà nghiên cứu ngại bước chân vào. Tuy nhiên, khi nó được khám phá, hẳn ai cũng thấy hết sức thú vị. Trong một chương trình truyền hình, có sinh viên người Thanh Hóa không nói “cầm lấy” mà nói “cằm lấy” lập tức bị người dẫn chương trình phê phán với giọng châm biếm khiến cử tọa cười ồ! Tưởng chỉ là chuyện vui, hóa chuyện… buồn… cười! Buồn cho kiến thức nông cạn và thái độ thô thiển đến tức cười!

Tiếng Hà Nội được xem là chuẩn, nhưng nếu người các địa phương trong nước phát âm chệch (không chuẩn) cũng chẳng có gì lạ. Bởi xứ sở Hà thành chẳng phải hiếm trường hợp “nói năng” không chuẩn. Ví dụ: âm tr nói thành âm gi (ông giời, giồng cây, ăn giầu…), âm tr thành âm ch (con châu, chào phúng, đánh cháo…) s thành x (xo xánh, xung xướng, cam xài, xứ xở…) âm r thành âm d (du ngủ, chín dộ, dung động…), v.v…

Tiếng Việt phổ thông yêu cầu đọc và viết chuẩn, nhưng chưa hề quy định tất cả người Việt phải phát âm chuẩn, nói giọng chuẩn, vì hoặc là không làm được hay không nên làm bởi mất đi sự muôn màu ngàn vẻ của nó. Tuy nhiên, nhìn chung phần lớn học sinh thường ngày phát âm không chuẩn, khi viết và đọc ít khi mắc lỗi chính tả. Cũng có những trường hợp nếu khô cứng “chuẩn hóa” chỉ gây tác hại “nghèo hóa” tiếng Việt. Ví dụ: nhầm lẫn và lầm lẫn, lềnh phềnh và lềnh bềnh, đường sá và đàng sá, ví dụ và thí dụ, khoác lác và phét lác, nói láo và nói phét, lười biếng và lười nhác, v.v… Có những thành ngữ, tục ngữ, ca dao địa phương Thanh Hóa in dậm dấu vết thổ âm – thổ ngữ xứ Thanh, đã góp phần làm giàu có thêm kho tàng thành ngữ, tục ngữ, ca dao Việt Nam:

– Đã mất lả lại mất cả tro bếp (lả = lửa).

– Thuốc đắng đã tật (đã là khỏi, không phải “dã”).

– Việc nhà nhác việc chú bác siêng (nhác = lười).

– Anh về cho em về theo

Bác mẹ có đánh ta leo lên giường (leo = trèo)

– Làm đẫy không xấu bằng xay cấu ban ngày.

(đẫy = đĩ, cấu = thóc gạo).

Thổ âm – thổ ngữ góp phần quan trọng tạo nên sắc thái địa phương. Như dân ca Đông Anh có câu: “Ba bốn o có bợm cùng chăng…” nếu thay o bằng cô, bợm bằng bạn thì không còn là Thanh Hóa. Hay bài hát về Hà Tĩnh của Nguyễn Văn Tý: “Đi mố rồi cũng nhớ về Hà Tịnh ..” nếu thay mố bằng đâu, chữa Tịnh thành Tĩnh thì đâu phải chất dân ca xứ Nghệ. Nghe dân ca Nam bộ, ta như được dự những bữa tiệc thổ âm – thổ ngữ vùng đồng bằng sông nước Cửu Long xiết bao kỳ thú…

Tuy vậy, đối với dân ca lời cổ vùng trung du, đồng bằng Bắc bộ, ta lại thấy những từ ngữ giống như từ Thanh Hóa, lạc bước tới: Hột (là hạt trong bài “Gọi nghé” – Dân ca Hải Phòng), phềnh (là bềnh trong bài “Qua sông hái củi” – Dân ca Hải Phòng), Dày (là đạp trong bài “Cái cong – dân ca Hà Nam), Huê (là hoa trong bài “Huê thơm bướm lượn” – Quan họ Bắc Ninh), Huê tình trong bài “Đố hoa” – Dân ca Phú Thọ … Càng ngạc nhiên hơn khi ta được nghe người Phú Thọ – Đất tổ Hùng vương, không hát “tình là tình tình tang tình” mà cũng hát “tềnh là tềnh tềnh tang tềnh” theo lối phát âm “chệch” hay một lối biến âm phổ biến: “i” thành “ê” của người xứ Thanh. Trong lời cổ dân ca trong trung du, đồng bằng Bắc bộ, ta còn gặp những từ ngữ cổ hiện nay vẫn thấy dùng ở nông thôn các huyện Nông Cống, Triệu Sơn, Đông Sơn, Thiệu Hóa, Thọ Xuân, Yên Định: Sui = sôi; Tra = bỏ; Cái thời = cái giỏ; Loa = bát to loe miệng; Lội = lặn; Bứt = cắt, hái … Đó là cổ ngữ xứ Thanh cũng là phương ngữ của một số miền quê khác: Hải Phòng, Hà Nam, Bắc Ninh, Phú Thọ… của thời đã qua?

Vấn đề thổ âm – thổ ngữ Thanh Hóa không chỉ đơn thuần là thổ âm – thổ ngữ của một địa phương. Nhiều, rất nhiều trường hợp không có nguồn gốc bản địa, hoặc tiếp nhận từ miền quê khác, hay chịu ảnh hưởng qua lại của dân tộc anh em Mường, Thái… cùng sống chung hòa hợp trong một đại gia đình dân tộc trên đất Thanh. Sự tiếp biến văn hóa ấy cũng thấy ở các vùng quê văn hóa in đậm sắc thái địa phương.

Thổ âm – thổ ngữ là hai thuật ngữ khoa học vì chúng có quan hệ mật thiết với nhau, người ta thường đề cập như một thuật ngữ kép.

Thổ âm là sự biến âm và chuyển vần (chữ cái) theo cách phát âm có nguyên tắc và quy tắc ở mức độ nhất định. Ví dụ:

Sự biến âm thường rất dễ nhận ra đối với người ở vùng quê khác. Hãy so sánh tiếng phổ thông với tiếng Thanh Hóa, ta thấy âm “â” biến thành âm “ă”, âm “a” biến thành âm “â”, âm “i” biến thành âm “ê”, âm “ê” biến thành âm “iê”, âm “ô” biến thành âm “o”… Trường hợp âm “âu” biến thành âm “u” và ngược lại âm “u” biến thành âm “âu” dường như trái “quy luật”. Ví dụ:

– Con trâu (phổ thông), con tru (Thanh Hóa).

– Cây xoan đâu (phổ thông), cây xoan đu (Thanh Hóa).

– Đi tù (phổ thông), đi tầu (Thanh Hóa). Nhưng “cây đu đủ” (phổ thông), Thanh Hóa không nói “cây đâu đẩu” mà vẫn nói “Cây đu đủ”, tại sao? Vì Thanh Hóa gọi “Cây đu đủ” là “Cây hổng” còn đu đủ là từ du nhập, vay mượn, dùng lâu thành quen, tưởng lầm là của mình …

Khác thổ âm, thổ ngữ chính là cổ ngữ (tiếng cổ), lưu hành từ xa xưa của Thanh Hóa, ở Thanh Hóa. Ví dụ: trốc (đầu), trượng (mắt), cắn (sửa), me (con bê), ỉn, ỉ (con lợn), ruốc (moi), con của (vật nuôi), anh đỏ, chị đỏ (trai gái nông dân lấy vợ, lấy chồng chưa có con)…

Có những địa danh cổ rất thú vị, giảng giải phải hàng trang sách: “Mười hai xứ Láng mười tám xứ Neo” (Thọ Xuân), “Tứ xã Bản” (Yên Định), “La Mát La Mạt” (Hà Trung), “Tạnh xá” (thành phố Thanh Hóa)… Nhiều từ ngữ cổ trong tác phẩm văn học cổ: Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi), Hồng Đức Quốc Âm thi tập, Ngọa Long cương (Đào Duy Từ), Sơ kính tân trang (Phạm Thái), Song tinh bất dạ (Nguyễn Hữu Hào), Truyện Kiều (Nguyễn Du)… hiện còn thấy dùng ở nhiều làng quê Thanh Hóa.

Hiện nay “Tiếng Thanh Hóa” đang phát triển theo hướng “chuẩn hóa” của tiếng Việt. Trong lịch sử “tiếng Thanh Hóa” đã theo chân người Thanh Hóa “mang gươm đi mở cõi” đến tận miền quê mới Cửu Long Giang và dấu vết còn in đậm nét suốt từ đèo Hoành Sơn đến vịnh Hà Tiên. Đó là niềm tự hào không của riêng người Thanh Hóa.

Vì khuôn khổ bài báo có hạn, ở đây không thể đi sâu, còn nhiều vấn đề của thổ âm – thổ ngữ Thanh Hóa sẽ bàn đến trong dịp khác.

Theo Hoàng Tuấn Phổ (báo Thanh Hóa )

Post ngày: 10/19/17  

Stt Dân Chơi – Những Câu Nói Hay, Status Chất Của Dân Chơi Bar, Đập Đá Phá Ke

Tổng hợp những câu nói hay của dân chơi chất nhất để làm stt dân chơi cho riêng mình, học thuộc và đối đáp với anh em hoặc đăng lên facebook.

Xã hội ngày càng phát triển và giới trẻ ngày nay cũng có xu hướng giải trí khác xưa. Đa số hiện nay giới trẻ thích tụ tập để ăn nhậu, đi bar, club để nhảy,…. và thường gọi đó là “dân chơi”. Tuy nhiên dân chơi cũng có người này người kia, chơi biết điểm dừng và chơi thâu đêm suốt sáng, thường thì dân chơi có rất nhiều câu nói chất và độc đáo. Để hiểu hơn về những câu nói hay về dân chơi thì bài viết này Huyền Bùi đã sưu tầm được một số stt dân chơi mời bạn xem qua:

1. Anh sẽ vì em làm cha thằng bé, anh sẽ ôm boom đánh sập lâu đài.

2. Điếu thuốc này đệ châm huynh hút, hút xong rồi huynh chớ giá băng.

3. Đi lên từ hai bàn tay trắng, và gây dựng được một khoảng nợ khổng lồ.

4. Hạnh phúc tàn em tràn nước mắt, đạt lắm rồi hạ màn đi anh êi.

5. Đi vũ trường nghe nhạc Trường Vũ.

6. Ngta nghèo ngta ăn nho Mỹ còn anh nghèo anh qua Mỹ ăn nho.

7. Vợ là địch, bồ bịch là ta. Khi chiến sự xảy ra ta về với vợ, nằm trong lòng địch lòng vẫn hướng về ta.

8. Nếu mai này tình mình không thọ liệu anh có bốc họ vì em không.

9. Mái tóc anh nhuộm màu sương gió, Yêu giang hồ nghèo khó lắm em ơi.

10. Băng vệ sinh dội nước còn thấm người l gì nói mãi đéo chịu thông.

11. Trên đời có 2 loại người, một loại biết đếm và một loại không biết đếm.

12. Mai này anh ngã xuống ao em mà nhìn thấy em lao xuống dìm.

13. Đi bar không phải là hư, Đi bar là để lắc lư đỡ buồn. => stt dân chơi bar.

14. Trai ngoan trai thích ở nhà gái ngoan gái thích ở nhà trai ngoan.

15. Giá xăng cũng như quần lót của phụ nữ , tụt mạnh xuống sẽ dễ bị … Sốc.

16. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén yêu mà không chén yêu được bao lâu.

17. Em là của người ta còn anh là của cần sa mất rồi.

18. Chốn bổn phong hoa em không bằng họ riêng đua trên hồ họ tuổi l bằng em.

19. Đã ngu, không tiếp thu, lại còn bảo thủ.

20. Anh ơi đừng lấy nhà giàu nó đi SH đâm đầu oto, lấy em có con xe số mỗi lần lên phố dẫn đầu đoàn đua.

21. Hút thuốc không phải là ngầu, Hút thuốc là để đi cầu đỡ hôi.

22. Ngày anh đi em mặc áo Gucci, ngày anh về em mặc áo Dolce.

23. Đằng sau nụ cười là nước mắt…đằng sau nước mắt là..cá sấu.

24. Anh ơi cho em vay bát họ hạnh phúc, lãi suất này em trả bằng con tim.

25. Sâu răng là phong cách, hôi nách là dân chơi.

26. Bỏ phê pha đi tìm tri kỷ ai ngờ tri kỷ lại phê pha.

27. Già đến trái cà còn nhăn nhúm.

28. Tưởng ao sâu em nối sợi dậy dài ai ngờ ao cạn em tiếc hoài sợi dây.

29. Anh có thể bỏ rượu chè, thuốc lá, cờ bạc, thậm chí là game tất cả vì em… nhưng đừng bắt a bỏ chém gió.

30. Ai chê mày xấu mày phải nhớ sau này gặp lại mặt phải vênh.

31. Đã xấu mà còn xa. Đã si đa mà còn đòi đi hiến máu. => stt dân chơi độc đáo

32. Em mới tròn đôi mươi trên số tuổi mà nỗi buồn theo đuổi gấp số đôi.

33. Giang hồ hiểm ác em không sợ Chỉ sợ đường về nắng cháy da.

34. Sống ở đời đừng cậy quyền cậy thế vì bàn cờ đôi lúc tốt đuổi xe.

35. Trong điền kinh thì tốt nhất là vừa chạy vừa ….rải đinh.

36. Trong game trường em đánh gục tất cả dưới tình trường em gục ngã trước anh.

37. Cờ bạc là bác thằng hèn, Áo quần bán hết, tòng teng đi… ăn mày.

38. Hạnh phúc lấy đéo đâu ra màu hồng, có qua có lại làm đéo có ai cho không?

39. Vẫn có những bầy óc ngắn và não ít xoắn đến thảm thương.

40. Trái tim em giờ đã hoá đá, cần 1 người đập đá cứu em ra.

41. Nếu một mai em yêu thằng khác Anh mỉm cười cái dm nhà em Không có em anh còn con khác Luật giang hồ không cho phép cô đơn.

42. Mang yêu thương xếp vào quá khứ anh yêu ai thì kệ mẹ anh chứ.

43. Người thì như cái chậu mà nghĩ mình là hoa hậu.

44. Tôi tìm em giữa bầu trời chen nắng, ai tìm tôi giữa phố vắng đêm mưa.

45. 1 là anh bỏ nó, 2 là anh theo nó chứ anh đừng chơi kiểu chó vừa nó vừa em.

46. Đừng nghĩ em xấu mà chê yêu em thì biết nó phê cỡ nào.

47. Chó cỏ nhà quê mà tưởng mình là béc zê thành phố.

48. Trăng lên đỉnh núi trăng tà anh yêu em thật hay là yêu chơi. Trăng lên đỉnh núi chơi vơi anh yêu em thật yêu chơi làm gì.

49. Ớt cay ớt ăn cả vỏ ngực em nhỏ anh có bỏ em không.

50. Kứt trâu ngoài đường mà đòi tương đương với sô cô la hạng nhất.

51. Hôn em đi khi môi em còn đỏ, đông đến rồi nứt nẻ lắm anh ơi.

52. Kinh nghiệm ăn chơi: “Trẻ xông pha, già… hối hận”.

53. Điếu thuốc tàn bên ly cafe cạn đời khốn nạn biết làm bạn với ai.

54. Cống rãnh đòi sóng sánh với đại dương.

55. Lúc ăn chơi sao không gọi bạn lúc hoạn nạn cứ gọi bạn ơi.

56. Giàu người ta trọng, nghèo người ta khinh Xinh xinh thì người ta gạ địt. Xấu thì thịt free cũng ko thèm Lèm bèm thì nói dở hơi, dân chơi lại nói nhà không biết dạy…

57. Kẻ thương em cả đời em xua đuổi kẻ lừa tình vài buổi em lại yêu.

58. Đã ngu mà còn cố tỏ ra nguy hiểm.

59. Chút nắng mong manh cứ ngỡ là mùa hạ, chút tình xa lạ sao giữ nổi người ta.

60. Trăm năm Kiều vẫn là kiều / DJ hở zdú là điều đương nhiên.

61. Anh đang cố thể hiện bản chất đàn ông, nhưng em lại cho anh thấy em chưa qua lứa tuổi nhi đồng.

62. Nhìn xa thì giống Thúy Kiều, nhìn gần mới biết… người yêu Chí Phèo.

63. Hôm nay em mệt rã rời muốn ôm anh ngủ kệ đời được không?

64. Thứ 7 máu chảy về “…” bar.

65. Hôm nay em mệt rã rời muốn ăn cháo lưỡi anh mời em đi?

66. 1 nụ cười= 10 thang thuốc bổ, cười ko đúng chỗ thì lấy rổ mà hứng răng.

67. Anh yêu em không hề nói phét tình chúng mình căng đét phải không em.

68. Bar bủng, sàn sủng không đập thủng được tim em.

69. Thuốc đắng giã tật nhạc giật chúng em lên.

70. Nhìn em kia dễ thường mà thương hông có dễ => dê có thưởng.

71. Có tâm trồng hoa hoa k nở, vô tình cắm liễu liễu lại xanh.

72. Bay lên nào là bay sang …Lào. => stt dân chơi bay lắc

73. Đầu đường đầu chợ đéo đầu hàng.

74. Ăn cơm đậu phụ đi bàn chuyện chính phủ.

75. Xin trả em về nơi bốc họ, tình yêu này lãi cao quá em ơi.

76. Nhạc không hay thì đừng giơ tay.

77. Gái một con trông mòn con mắt, gái một mắt hết hồn con ơi.

78. Cức trôi sông mà tưởng xà bông hàn quốc.

79. Yêu em như track nhạc này / Buồn buồn anh bấm nút play hết buồn.

80. Ăn mắm mà còn bày đặt đánh rắm.

81. Vác kiếm trên vai đời lãng tử, chào mẹ con đi đói con về.

82. Nhan sắc có hạn mà lựu đạn có thừa.

83. Thế gian cỏ lạ nhiều vô kể cớ sao nhớ mãi 1 cành hoa.

84. Ăn cơm ruốc đi bàn chuyện tổ quốc.

85. Tiên học nhảy, hậu học bay, đầu quay quay vũ trường thẳng tiến.

86. Thà chạy xe nhanh mà tông thằng khác :”>… còn hơn từ từ hóng mát để cho thằng khác nó tông…

87. Cóc, Nhái, Ếch Ương mà hoang tưởng mình là Mị Nương chân dài.

88. Không biết biết xào ke cũng chẳng biết đập đá, em chỉ biết may vá và biết cả chăm con. => stt dân chơi đập đá

89. Chó Hoang mà cứ nghĩ mình là Bà Hoàng của xã hội.

90. Sống để chơi chứ không phải vì chơi mà đánh rơi bản chất.

91. Mèo Ghẻ mà cứ tưởng mình là kẻ Bề Trên của thiên hạ.

92. Một con đàn bà suốt ngày ở nhà nằm võng, đích thị nó là con đàn bà hư hỏng.

93. Tinh tinh mà đòi xinh hơn Khỉ Đột.

94. Bản chất tội ác, tính cách sát nhân, trộm cắp chuyên cần, làm phiền cảnh sát.

95. Chim chích mà đòi xích míc với Chim Ưng.

96. Dân chơi không sợ mưa rơi, chỉ sợ mưa đá vớ̃ đầu dân chơi.

97. Đừng nói yêu đến phát điên rồi vẫn cứ hồn nhiên phản bội.

98. Anh biến em thành con mã tấu… Chém chết con nào nói yêu anh.

99. Hút thuốc không phải là ngầu, hút thuốc là để đi cầu đỡ hôi.

100. Người âm phủ, ngủ ngày đêm bay.

101. Thà khốn nạn công khai … Còn hơn giả nai thánh thiện.

102. Quân tử đỗ máu ko đỗ lệ. Công tử máu đỗ thì lệ rơi.

103. Không phê nhưng người rất tê.

104. Hôm qua em đứng ngoài đường Thấy thằng xe máy lách đường rú ga Hôm nay ra bãi tha ma A thằng xe máy hôm qua đây rồi. => stt dân chơi xe độ

105. Ngồi buồn nhặt lá vàng rơi … Xếp thành 4 chữ ” đợi em suốt đời ” …. Đợi mãi chả thấy em đâu ….. Viết lại 4 chữ ” Em đâu mất rồi “.

106. Trời mưa ướt áo ướt quần, làm sao ướt được tinh thần dân chơi.

107. Em như hoa bồ công anh phiêu du khắp mọi nơi. Có đất lành, có đất xấu, liệu e biết hết được thói đời.

108. Dân thường chơi đẹp, đè bẹp dân chơi.

109. Cuộc đời cũng như 1 lớp học, chỉ khác là ở lớp học bạn được học rồi thực hành, còn trong cuộc đời bạn phải thực hành thì mới rút ra bài học.

110. Sáng trăng chiếu trải hai hàng, Bên anh “xập xám”, bên nàng “tiến lên”.

111. Con chỉ sợ nước mắt mẹ rơi chứ con ăn chơi lúc nào chả được.

112. Thờ ơ với cuộc sống, chống đối với cuộc đời.

113. Nợ cha 1 sự nghiệp nợ mẹ 1 nàng dâu. => stt dân chơi hài hước.

114. Không đâm, không chém đời không nể, không tiền, không bạc gái không theo.

115. Đường em đi toàn ke với cỏ biết lấy gì bày tỏ với anh đây.

116. Hà Nội đêm nay sương mù bao phủ nhớ anh nhiều em có ngủ đc đâu.

117. Nể nhất mấy đứa ăn trộm tiền của mẹ rồi ra quán Karaoke hát bài “Con nợ Mẹ”.

118. Giả anh về với trung đoàn tổ lái, tình chúng mình chỉ úp vỉa và bo xe.

119. Giang hồ quậy phá tao chơi được, chứ 2 mặt giả tạo tao xin thua.

120. Gái Hà Nội như vàng lên giá, trai vớ vẩn tuổi l đòi yêu.

121. Nước trong nước chảy trong chùa, không yêu em cũng bỏ bùa cho yêu.

122. Có phải bố em là dân tổ? Đã dạy em cách đâm vỉa vào tim anh.

123. Sống là phải làm chủ được cuộc chơi, phải tự tô màu đời.

124. Anh em 4 bể là nhà người dưng khác họ vẫn là anh em.

125. Dân chơi không sợ mưa rơi, mưa rơi ướt áo đem về mẹ phơi.

126. Trong cơn phê anh là chàng tỷ phú tỉnh cơn lú anh là chú xe ôm.

127. Thời này ai còn ở nhà lập đàn cầu mưa nữa, ra ngoài kia mua hết BCS rồi bán lại với giá cắt cổ đi…

128. Đã ăn cơm xin đừng chọc đũa vào bát phở, cơm mềm phở dẻo nhưng đéo thể ăn chung.

129. Sai thì sửa, chữa thì đẻ.

130. Chim bay mỏi cánh chim dừng, đã là huynh đệ thì đừng quên nhau. => stt dân chơi nói lên tình anh em.

131. Đời học sinh là đời đau khổ, hãy đứng lên lật đổ tường nhà.

132. Em ơi ván đã đóng thuyền tháo ra đóng lại có phiền không em.

133. Cứ chơi đi cho hết thời tuổi trẻ, rồi về già vui vẻ đạp xích lô.

134. Có bao h trong cuộc vui căng đét, anh gào thét…của anh ơi.

135. Trước mắt em, anh là thằng hai lúa, sau lưng em, anh là chúa giang hồ.

136. Sữa mẹ em còn có thể cai thế anh nghĩ anh là ai mà em không thể bỏ.

137. Đeo kính là thời trang, hở hang là phong cách, hôi nách là dân chơi :”).

138. Yêu em không phải lên giường yêu em là để lên phường kết hôn.

139. Vũ trường là chốn ăn chơi, Chí Hoà là chỗ nghỉ ngơi giang hồ.

140. Chuyện tình em như bản nhạc buồn chỉ chờ anh mix là lên luôn.

STT dân chơi bar, đập đá của các cậu ấm cô chiêu chất lừ

1. Trung thu anh vẫn một mình nếu em cũng thế thì mình đi bay.

2. Cuộc đời sao lắm éo le, nhân sâm thì ít rễ tre thì nhiều.

3. Tàu ra đến biển còn chìm … Hơi ra đến đít biết kìm làm sao.

4. Hạnh phúc không phải ở tiền mà là ở số lượng của nó.

5. Bạn bè thấy giàu thì nịnh, thấy nghèo thì khinh, cũng dễ hiểu thôi! Xã hội bây giờ, cái vật chất hất đổ cái tinh thần mất rồi.

6. Bước chân dô quán đèn mờ, Ngồi gần con gái không sờ là ngu!! Thà rằng cắt tóc đi tu. Ngồi gần con gái ….. ngu sao không sờ!!

7. Nghiện ngập thì có thể cai Nhưng mê trai thì chỉ có đầu thai mới hết.

8. Đi lên từ hai bàn tay trắng và gầy nên một khoản nợ khổng lồ.

9. Lớn rồi…phải biết che đậy cảm xúc. Ném đá phải biết giấu tay, thủ đoạn rất hay nhưng phải giả vờ là người bị hại.

10. Già đến trái cà còn nhăn nhúm Lại còn thích đàn đúm chém gió đọ dân Teen.

11. Đã xấu mà còn xa. Đã si đa mà còn xông pha hiến máu.

12. Giá xăng cũng như quần lót của phụ nữ , tụt mạnh xuống sẽ dễ bị … Sốc.

13. Chiều chiều gió thổi đầu non, trong lòng muốn nhậu nhưng không có tiền.

14. Mưa rơi ướt áo ướt quần Làm sao ướt được tinh thần dân đua.

15. Buồn buồn ngồi đếm ngón tay Ủa sao ngón ngắn ngón dài dzậy ta? Ngồi hoài nghĩ cũng chẳng ra Lấy dao chặt bớt thế là bằng nhau.

16. Thuốc lắc dã tật, nhạc giật là lên.

17. Thứ 7 máu chảy về bar.

18. Bar bủng, sàn sủng không đập thủng được tim em.

19. Đời lắm chó, chó lắm trò.

20. Xõa hết tầm xương hầm cũng rục.

21. Đi bar không phải là hư Đi bar là để lắc lư đỡ bùn.

22. Hút cần là phải đần.

23. Nhất kẹo, nhì ke, tam cần, tứ đá.

24. Bỏ PHÊ PHA đi tìm TRI KỈ nhưng ngờ đâu TRI KỈ lại PHÊ PHA.

25. Mẹ sinh con ra mẹ mong con lớn Nhưng con lớn rồi mẹ lại đau đầu.

26. Đỉnh cao của sự khinh bỉ là … Im lặng.

27. Chiếm được thể xác 1 người con gái là bài toán dễ, còn chiếm được trái tim cô ấy mới là bài toán khó. Thôi thì bài nào dễ làm trước bài nào khó làm sau vậy, không làm được bài khó chí ít cũng phải làm được bài dễ.

28. Nói vẫn cứ là việc của mồm.

29. Ngồi buồn nhặt lá vàng rơi. Xếp thành 4 chữ: Đợi em suốt đời. Đợi mãi chả thấy em đâu. Viết lại 4 chữ: Em đâu mất rồi.

30. Cuộc đời cũng như 1 lớp học, chỉ khác là ở lớp học bạn được học rồi thực hành, còn trong cuộc đời bạn phải thực hành thì mới rút ra bài học.

31. Em như hoa bồ công anh phiêu du khắp mọi nơi. Có đất lành, có đất xấu, liệu e biết hết được thói đời?

32. Trong ngôi nhà bánh kẹo có rất nhiều cạm bẫy, em bước vào vì nơi đó có anh.

33. Mệt mỏi quá thì về với anh, anh vẫn luôn ở đây. Đằng sau em này.

34. Sống là phải để cuộc đời chạy theo mình xin chữ ký. Chứ không bao giờ đuổi theo ai xin bố thí cái gì.

35. Một nụ cười bằng 10 thang thuốc bổ. Nhưng cười ko đúng chỗ thì lấy rổ mà đựng răng.

36. Đời là bể khổ. Nổ là bể đầu.

37. Nhiều khi hâm hâm cho lòng thanh thản. Nhiều khi lảm nhảm cho tâm hồn thêm vui.

38. Vạn sự khởi đầu nan. Gian nan bắt đầu nản.

39. Thà khốn nạn công khai. Còn hơn giả nai thánh thiện.

40. Chó hoang mà cứ nghĩ mình là bà hoàng của xã hội! Mèo ghẻ mà cứ tưởng mình là kẻ bề trên của thiên hạ.

41. Trong điền kinh thì tốt nhất là vừa chạy vừa rải đinh.

42. Đã ngu, không tiếp thu, lại còn bảo thủ.

43. Đằng sau nụ cười là nước mắt, đằng sau nước mắt là cá sấu.

44. Thuê bao quý khách vừa gọi hiện nằm ngoài vùng phủ sóng, nằm trong vùng phủ chăn và nằm cạnh một thuê bao khác.

45. Ăn cơm cà đi bàn chuyện quốc gia.

46. Nhan sắc có hạn mà lựu đạn có thừa.

47. Cức trôi sông mà tưởng xà bông hàn quốc.

48. Đã ngu mà còn cố tỏ ra nguy hiểm.

49. Chó cỏ nhà quê mà tưởng mình là béc zê thành phố.

50. Ở đâu cũng có anh hùng. Ở đâu cũng có thằng khùng thằng điên.

51. Yêu nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau đôi dép dẫu mòn cũng chia.

52. Nếu em là trại thương điên thì anh sẽ là thằng điên mãi mãi.

53. Mấy đời bánh đúc có xương. Mấy đời gái đẹp lại thương trai nghèo.

54. Anh yêu em như Bác Hồ yêu nước. Mất em rồi như Pháp mất Đông Dương.

55. Nếu anh là giọt nước mắt trong em, thì em sẽ khóc để anh lăn xuống chạm vào môi em. Nhưng nếu em là giọt nước mắt trong anh thì anh sẽ không bao giờ khóc bởi vì anh không muốn mất em.

56. Chưa đủ nhớ để gọi là yêu. Chưa đủ quên để thành xa lạ. Anh ám ảnh em giữa hai chiều nghiệt ngã. Nghiêng bên này lại chống chếnh bên kia.

57. Hãy yêu một người có thể vì bạn mà làm tất cả. Chứ đừng yêu một người chỉ biết diễn tả tương lai.

58. Nếu em là bịch thuốc phiện thì anh sẽ là thằng nghiện đầu tiên.

59. Anh bàng hoàng nhận ra mình là kẻ thiếu muối, đang đắm đuối yêu một kẻ củ chuối như em.

60. Đẹp trai, nhà giàu, có xe đạp riêng.

61. Muốn sang phải bắc cầu kiều. Muốn yêu cô chị phải chiều cô em.

62. Anh thà mặc áo rách, chứ đéo mang phong cách thằng China.

63. Không có người phụ nữ xấu, chỉ có người phụ nữ không biết mình xấu.

64. Đêm nay định thức học bài, lật ra lại thấy nó dài nên thôi.

65. Nước mắt cạn cho một cuộc tình hết hạn.

66. Hạnh phúc nhất trên cuộc đời này là một mâm cơm đầm ấm cùng gia đình.

67. NGƯỜI TỐT hả…. vào phim mà tìm. HẠNH PHÚC hả….đọc cổ tích mà kiếm.

68. Vịt xấu xí không thể thành thiên nga. Quạ không thể úm ba la để nguy nga như phượng hoàng.

69. Hóa ra, im lặng là thứ giết chết tình yêu nhanh nhất, và cũng để lại nhiều hối tiếc nhất.

70. Đằng sau một con người nhí nhảnh. Là một tâm hồn đầy vết xước và tổn thương.

TOP 25 câu đá xoáy bất hủ bựa khắm hay nhất cực chất của dân chơi

1. Cuộc đời sao lắm éo le, nhân sâm thì ít rễ tre thì nhiều.

2. Hạnh phúc không phải ở tiền mà là ở số lượng của nó.

3. Cây trên đời đơm hoa kết trái …. Trai gái nào mắc quá cũng phải đi … Hồi nhỏ ta được mẹ si … Bây giờ ta lớn ta đi một mình.

4. Tàu ra đến biển còn chìm … Hơi ra đến đít biết kìm làm sao.

5. Thà sống giàu sang mà sung sướng còn hơn sống nghèo hèn mà cực khổ.

6. Câm hay ngóng, ngọng hay nói !

7. Nghệ thuật che lấp sự bất tài cũng đòi hỏi không ít tài năng.

8. Đừng so sánh e vs nó.. Vì nó là chó còn e là người Anh đừng bật cười khi nghe điều đó Vì a và nó đều là chó như nhau.

9. Người ta nói con gái sinh ra là để được che chở !! Vậy sao em cứ phải gồng lên giả vờ mạnh mẽ hả em?

10. Ở Đời có 3 việc: Việc của bản thân Việc của người khác Việc của ông trời

* Chúng Ta Thường Buồn phiền là do

– Quên mất việc của mình – Thích xen vài việc của người khác – Lo lắng về việc của ông trời

* Muốn Vui Vẻ Rất Đơn Giản

– Làm tốt việc của bản Thân – Đừng xen vào việc của người khác – Đừng nghĩ về việc của ông trời

11. Cảm ơn bạn đã luôn nói xấu sau lưng tôi: Bạn thật xứng đáng ở nơi thuộc về bạn, đó là Đằng Sau Tôi!

12. Bạn bè: Thấy giàu thì nịnh, thấy nghèo thì khinh, cũng dễ hiểu thôi! xã hội bây giờ, cái vật chất hất đổ cái tinh thần mất rồi!!!

13. Đừng buồn vì nghĩ rằng bạn xấu…hãy luôn tin rằng bạn có một vẻ đẹp tiềm ẩn mà càng tìm nó càng ẩn!

14. Lớn rồi…phải biết che đậy cảm xúc. Ném đá phải biết giấu tay, thủ đoạn rất hay nhưng phải giả vờ là người bị hại.

15. Giữa bao nhiêu người văn minh và hiểu biết… Vẫn có những bầy óc ngắn và não ít xoắn đến thảm thương :))

16. Trong điền kinh thì tốt nhất là vừa chạy vừa ….rải đinh

17. Giang hồ hiểm ác anh không sợ, chỉ sợ đường về THẤY bóng em.

18. Đã xấu mà còn xa. Đã si đa mà còn đòi đi hiến máu.

19. Già đến trái cà còn nhăn nhúm Lại còn thích đàn đúm chém gió đọ dân Teen!

20. Đằng sau nụ cười là nước mắt…đằng sau nước mắt là..cá sấu.

21. Đã ngu, không tiếp thu, lại còn bảo thủ

22. Cướp giật đây, giơ tay lên ko tao báo công an!

23. Xin bạn hãy dành ra vài giây để đọc hết câu này, đọc tới đây thì cũng mất vài giây rồi, cảm ơn bạn ^__^

24. Giá xăng cũng như quần lót của phụ nữ , tụt mạnh xuống sẽ dễ bị … Sốc!

25. Trên đời có 2 loại người, một loại biết đếm và một loại không biết đếm

Top 20 Stt đểu và chất về cuộc sống

Những câu stt đểu và chất về cuộc sống lúc nào cũng vui tươi, đầy sự hóm hỉnh, suy nghĩ tích cực về cuộc sống. Bởi cuộc sống muôn màu muôn vẻ, bạn sẽ chẳng bao giờ định đoạt được tất cả, biết những chuyện gì sẽ xảy ra trong cuộc sống của mình ở tương lai bởi “Cuộc sống không giống như cuộc đời”. Bởi vậy, nếu còn được sống, sao lại không sống một cách thật vui vẻ và ngập tràn tiếng cười. Nào, hãy cùng “cười không khép được miệng” với chúng tôi bằng những câu status đểu và chất nhất dưới đây nhé!

1. Cuộc đời sao lắm éo le, nhân sâm thì ít rễ tre thì nhiều.

2. Hạnh phúc không phải ở tiền mà là ở số lượng của nó.

3. Cây trên đời đơm hoa kết trái …. Trai gái nào mắc quá cũng phải đi … Hồi nhỏ ta được mẹ si … Bây giờ ta lớn ta đi một mình.

4. Tàu ra đến biển còn chìm … Hơi ra đến đít biết kìm làm sao.

5. Thà sống giàu sang mà sung sướng còn hơn sống nghèo hèn mà cực khổ.

6. Câm hay ngóng, ngọng hay nói !

7. Nghệ thuật che lấp sự bất tài cũng đòi hỏi không ít tài năng.

8. Một lần trót lỡ ôm ngàn hận

Giận đời đen đủi lắm gian truân

Phòng thủ đầu cuối sao còn dính

Lại 1 miệng ăn mới hạ trần.

9. Sốnq là phải để cuộc đời chạy theo mình xin chữ ký

Chứ không bao giờ đuổi theo ai xin bố thí cái zỳ :”>

10. Chết thì chôn, nông thôn lại đẻ, nhà trẻ lại chăm, được chục năm lại chết …. 1 vợ, 2 con, 3 lầu, 4 bánh

11. Một nụ cười bằng 10 thang thuốc bổ.

Nhưng cười ko đúng chỗ thì lấy rổ mà đựng răng.

12. Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi….mỏi lắm rồi.

13. Tiền không mua được lương tâm và tình cảm. Tức là ngoài 2 thứ đó tiền mua được tất.

14. Đời là bể khổ …. Nổ là bể đầu

15. Nhiều khi hâm hâm cho lòng thanh thản … Nhiều khi lảm nhảm cho tâm hồn thêm vui.

16. Một ngày tôi chọn một niềm vui …. Chọn mãi ko ra nên tôi lại buồn

17. Đời là bể khổ….Qua được bể khổ

…. là qua đời.

18. Luật đời!!!

Làm vì có TUYỆT VỜI hay HOÀN HẢO

Quá nhiều thứ chỉ là ẢO.

Vì thế chẳng có gì ĐẢM BẢO cho hai chữ THẬT LÒNG.

19. Vạn sự khởi đầu nan = Gian nan bắt đầu nản !!!

20. Đời là bể dâu, tình là bể khổ, quay đầu lại là bờ, ai ngờ đầy dông bão.

Top 16 Stt đểu và chất về “dân chơi không sợ mưa rơi”

Dân chơi – cụm từ chỉ những chàng “hào kiệt” thời @ luôn khiến cho dân mạng lấy làm đề tài để sáng tác nên những câu stt đểu và chất, những dòng status đểu hay nhất khiến bạn đọc phải “bò lăn ra cười”. Anh hùng thời @ cũng có dăm bảy loại, khiến những câu stt đểu và chất nhất về dân chơi cùng phong phú không kém. Cùng đọc và cười xả láng với dân chơi thời @, bạn nhé!

1. Bước chân dô quán đèn mờ,

Ngồi gần con gái không sờ là ngu!!

Thà rằng cắt tóc đi tu.

Ngồi gần con gái ….. ngu sao không sờ!!

2. Mưa rơi ướt áo ướt quần

Làm sao ướt được tinh thần dân đua

3. Có ngã dập mặt mới biết :

– Cái gì cần nhặt . Cái gì cần tiếc .

– Cái gì cần cất và Cái gì cần vứt đi!

4. Thà khốn nạn công khai … Còn hơn giả nai thánh thiện

5. Đừng nói yêu đến phát điên rồi vẫn cứ hồn nhiên phản bội :’)

Đừng đua đòi theo xã hội sống bằng bộ mặt vô tội giả nai :-s

6. Chó Hoang mà cứ nghĩ mình là Bà Hoàng của xã hội ! Mèo Ghẻ mà cứ tưởng mình là kẻ Bề Trên của thiên hạ.

7. Trong điền kinh thì tốt nhất là vừa chạy vừa ….rải đinh

8. Đã xấu mà còn xa. Đã si đa mà còn đòi đi hiến máu.

9. Đằng sau nụ cười là nước mắt…đằng sau nước mắt là..cá sấu.

10. Đã ngu, không tiếp thu, lại còn bảo thủ.

11. Cướp giật đây, giơ tay lên ko tao báo công an!

12. Xin bạn hãy dành ra vài giây để đọc hết câu này, đọc tới đây thì cũng mất vài giây rồi, cảm ơn bạn ^__^

13. Giá xăng cũng như quần lót của phụ nữ , tụt mạnh xuống sẽ dễ bị … Sốc!

14. Trên đời có 3 loại người, một loại biết đếm và một loại không biết đếm 😀

15. Thuê bao quý khách vừa gọi hiện nằm ngoài vùng phủ sóng, nằm trong vùng phủ chăn và nằm cạnh một thuê bao khác.

16. Vợ là địch, bồ bịch là ta. Khi chiến sự xảy ra ta về với vợ, nằm trong lòng địch lòng vẫn hướng về ta.

Top 15 Stt đểu và chất, những dòng status đá đểu hay nhất

“Đá đểu”, “đá xoáy” là những từ lóng chỉ xu hướng của giới trẻ hiện nay. Và những câu stt đểu và chất nhất hiện nay cho chủ đề đá xoáy chỉ cần ngắn gọn, nhưng bộc lộ rõ ràng quan điểm đá xoáy của các bạn trẻ. Tiếc gì mà không sử dụng lấy một câu stt đểu, stt chất nhất hiện nay để post lên mạng xã hội, đá xoáy một vài người làm bạn “ngứa mắt” khiến họ phải “lạnh gáy” nhìn lại bản thân, đúng không nào?

1. Ăn cơm cà đi bàn chuyện quốc gia.

2. Bị si-đa mà còn xông pha hiến máu.

3. Ăn cơm ruốc đi bàn chuyện tổ quốc.

4. Nhan sắc có hạn mà lựu đạn có thừa.

5. Ăn mắm mà còn bày đặt đánh rắm.

6. Cức trôi sông mà tưởng xà bông hàn quốc.

7. Ăn cơm đậu phụ đi bàn chuyện chính phủ.

8. Nhìn em kia dễ thường mà thương hông có dễ => dê có thưởng.

9. 1 nụ cười= 10 thang thuốc bổ, cười ko đúng chỗ thì lấy rổ mà hứng răng.

10. Nhìn xa thì giống Thúy Kiều, nhìn gần mới bík… người yêu Chí Phèo.

11. Đã ngu mà còn cố tỏ ra nguy hiểm.

12. Cống rãnh đòi sóng sánh với đại dương.

Kứt trâu ngoài đường mà đòi tương đương với sô cô la hạng nhất

13. Chó cỏ nhà quê mà tưởng mình là béc zê thành phố.

14. Người thì như cái chậu mà nghĩ mình là hoa hậu.

15. Kênh mương đòi tương đương vs bể nước.

Top 25 Stt đểu và chất về tình yêu khiến giới trẻ thích thú

Tình yêu luôn luôn là đề tài muôn thuở của giới trẻ hiện nay. Dù bạn đang hạnh phúc với tình yêu, hay F.A đã bao lâu rồi, hay vừa bị bồ đá thì những dòng stt đểu và chất, status đểu về tình yêu dưới đây luôn khiến bạn phải cười không ngậm được miệng. Dù có đau khổ, dù có buồn rầu đến đâu thì việc chọn lấy một dòng status đểu và chất về tình yêu sẽ giúp bạn giải tỏa cảm xúc một cách hiệu quả không ngờ. Nào, cùng khám phá nhé!

1. Tình chỉ đẹp khi còn dang dở Cưới nhau về tắt thở càng nhanh.

2. Tiền túng tình tan

Tư tưởng tồi tàn

Tiến tới TỰ TỬ

3. Ở đâu cũng có anh hùng, Ở đâu cũng có thằng khùng thằng điên

Thất tình tự tử đu dây điện.  Điện giật tê tê chết từ từ.

4. Yêu nhau trái ấu cũng tròn, ghét nhau đôi dép dẫu mòn cũng chia.

5. Chưa đủ nhớ để gọi là yêu. Chưa đủ quên để thành xa lạ. Anh ám ảnh em giữa hai chiều nghiệt ngã. Ngiêng bên này lại chống chếnh bên kia.

6. Nếu em là trại thương điên thì anh sẽ là thằng điên mãi mãi

7. Thu đi để lại lá vàng, anh đi để lại cho nàng thằng cu, Mùa thu nối tiếp mùa thu, thằng cu nối tiếp thằng cu ra đời.

8. Hoa mắt…chóng mặt…buồn HÔN.

9. Mấy đời bánh đúc có xương.Mấy đời gái đẹp lại thương trai nghèo

10. Hãy yêu một người có thể vì bạn mà làm tất cả …

Chứ đừng yêu một người chỉ biết diễn tả tương lai!

11. “ CHÚC ” gì đây khi 2 người 2 lối

“ EM ” lạnh lùng ngước mắt nhìn ra xa

“ HẠNH ” phúc đến nhưng tôi ko biết giữ

“ PHÚC” ở đời ngắn ngủi thế thôi sao ?!

12. Nếu em là bịch thuốc phiện thì anh sẽ là thằng nghiện đầu tiên.

13. Anh bàng hoàng nhận ra mình là kẻ thiếu muối… đang đắm đuối yêu một kẻ củ chuối như em

14. Yêu không dám nói của Phạm Trường:

Yêu là phải nói cũng như đói là phải ăn

Nhiều lúc muốn yêu, nhưng kiêu không thèm nói.

Để bây giờ bị đói về tình yêu.

15. Người đi một nửa hồn tôi mất …. MỘt nửa hồn kia vẫn bình thường.

16. Yêu anh bằng tất cả những gì em có

Để rồi anh đi  theo  NÓ như chưa từng có em.

17. Anh yêu em như Bác Hồ yêu nước

Mất em rồi như Pháp mất Đông Dương.

18. Một người buông tay,một người té…Một người né tránh, một người đau…

19. Yêu là đeo gông vào cổ

Là làm khổ bản thân

Là hao cân sút thịt

Là mù mịt tương lai

Là tiêu tàn tiền tiêu.

20. Nếu anh là giọt nước mắt trong em, thì em sẽ khóc để anh lăn xuống chạm vào môi em. Nhưng nếu em là giọt nước mắt trong anh thì anh sẽ không bao giờ khóc bởi vì anh không muốn mất em.

21. Người đi một nửa hồn tôi mất!! Một nửa hồn kia …… đứng chửi thề!!!

22. Kưa gái ko khó , cái khó là làm sao cho nó yêu mình. Lừa tình ko khó , cái khó là giữ sao cho mình đừng yêu nó.

23. Anh lớn lên dưới bầu sữa mẹ

Lại dại khờ trước bầu ngực của em!

24. “ CHÚC ” gì đây khi 2 người 2 lối

“ EM ” lạnh lùng ngước mắt nhìn ra xa

“ HẠNH ” phúc đến nhưng tôi ko biết giữ

“ PHÚC” ở đời ngắn ngủi thế thôi sao ?!

25. Một buổi chiều gió mát … Vẽ hình em lên cát … Thì bị ăn một tát … Của một con bò khác … Nãy giờ đang quan sát …. Anh còn đang ngơ ngác … Liền ăn thêm một tát … Ôi tình yêu trên cát … Thật là chua và chát!!!

Xem xong  stt dân chơi bạn cảm thấy thế nào, có đáp ứng được nhu cầu tìm kiếm của mình không? Huyền Bùi sẽ luôn cập nhật những câu nói hay về dân chơi nên thường xuyên ghé thăm! Nếu như bạn có stt dân chơi nào chất và độc đáo hơn thì comment bên dưới cùng anh em chém gió nhé!

Bạn đang xem bài viết Hiểu Đúng Câu Nói : “Dân Thanh Hóa Ăn Rau Má, Phá Đường Tàu” trên website Boxxyno.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!