Xem Nhiều 3/2023 #️ Chuyện Xưa Ngẫm Cho Vui : Lã Bất Vi Buôn … Vua # Top 3 Trend | Boxxyno.com

Xem Nhiều 3/2023 # Chuyện Xưa Ngẫm Cho Vui : Lã Bất Vi Buôn … Vua # Top 3 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Chuyện Xưa Ngẫm Cho Vui : Lã Bất Vi Buôn … Vua mới nhất trên website Boxxyno.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

                Thời Chiến quốc bên Tàu có lão lái buôn ở Dương Địch nước Vệ tên là Lã Bất Vi. Nhờ các mánh khóe buôn bán và khả năng nhìn xa của một doanh nhân mà giầu lên nhanh chóng. Trong nhà có tới hàng ngàn lượng vàng. Nhưng Lã Bất Vi chưa bằng lòng, còn muốn giàu nữa. Một lần, khi bàn đến chuyện kinh doanh, Lã Bất vi hỏi cha: “Làm ruộng lợi gấp mấy?”, Cha đáp: “Lợi gấp mười”. Lại hỏi: “Buôn châu ngọc lợi gấp mấy?”. Cha đáp: “Lợi gấp trăm” . Hỏi tiếp: “ buôn gì lãi nhất ?”. Cha đáp: “Buôn vua”. Lã Bất Vi khắc vào bộ nhớ câu trả lời của người sinh ra mình.

         Năm thứ 42 (265 TCN) nước Tần,  An Quốc Quân làm Thái tử. An Quốc Quân có hơn 20 người con, lại có người yêu nhất được lập làm chính phu nhân, gọi là Hoa Dương phu nhân. Phu nhân không có con. Tử Sở là con giữa của An Quốc Quân. Mẹ Tử Sở là Hạ Cơ không được vua yêu nên Tử Sở phải làm con tin của Tần ở nước Triệu. Tần mấy lần đánh Triệu, nên Triệu bạc đãi Tử Sở. Tử Sở làm con tin ở Triệu trong cảnh khốn khổ.

           Lã Bất Vi  đến  Hàm Đan ( kinh đô của Sở) trông thấy Tử Sở, nghĩ ngay : Món hàng này lạ, có thể buôn được đây! Bất Vi bèn đến nói với Tử Sở: “Tôi có thể làm cửa nhà ngài lớn lên”. Tử Sở cười: “Ông hãy tự làm cho cửa nhà ông lớn lên đã rồi hãy làm đến cửa nhà tôi”. Lã Bất Vi nói: “Thế thì ngài không biết: Cửa nhà tôi phải đợi cửa nhà ngài mới lớn được”.

Hôi ấy Lã Bất vi có người thiếp tên là Triệu Cơ, xinh đẹp, đàn hay múa giỏi, lại đã có mang với Lã Bất Vi . Bất Vi mời Tử Sở đến nhà, sai Triệu Cơ ra rót rượu. Tử Sở đem lòng say mê, Lã Bất Vi liền dâng Triệu Cơ cho Tử Sở. Tử Sở lập Triệu Cơ làm phu nhân, đến đủ tháng sinh con, đặt tên là Chính. ( thực chất, Chính là con của Lã Bất Vi)

         Lã Bất Vi cấp cho Tử Sở nhiều vang bạc để đãi tân khách. Biết Hoa Dương phu nhân được vua Tần yêu nhưng lại không có con, Lã bất vi mua nhiều vật qúy và lạ về Tần xin ra mắt Hoa Dương Phu nhân. Nhân đó ca ngợi Tử Sở hết lời, lại nói rằng Tử Sở dù ở nước Triệu vẫn rất nhớ Phu nhân. Rồi khuyên Hoa Dương phu nhân nên nhận Tử Sở làm con nuôi để làm chỗ tựa về sau. Hoa Dương phu nhân động lòng, đồng ý, rồi vào xin An Quốc Quân lập Tử Sở làm thừa tự. An Quốc Quân nghe theo.

         Năm 257 TCN, Tần sai Vương Ý vây Hàm Đan. Nước Triệu muốn giết Tử Sở. Lã Bất Vi đút lót trăm cân vàng cho kẻ coi giữ nên mới đưa được Tử Sở cùng trốn thoát về Tần. Triệu muốn giết vợ con Tử Sở, nhưng Triệu Cơ là con nhà tai mắt ở Triệu, lẩn trốn được vì thế mẹ con đều sống.

Năm thứ 56, Tần Chiêu Vương mất, thái tử An Quốc Quân lên làm vua, lập Hoa Dương phu nhân làm hoàng hậu, Tử Sở làm thái tử. Vua Triệu cũng cho đưa vợ của Tử Sở cùng con là Chính về Tần. Vua Tần lên ngôi được một năm thì mất. Thái tử Tử Sở lên thay, lấy hiệu là Trang Tương Vương, tôn mẹ nuôi là Hoa Dương làm Hoa Dương thái hậu, mẹ là Hạ Cơ là Hạ thái hậu.

        Trang Tương Vương cho Bất Vi làm thừa tướng, phong là Văn Tín Hầu, được ăn thuế mười vạn hộ ở Hà Nam, Lạc Dương.Trang Tương Vương làm vua được ba năm thì mất. Thái tử là Chính ( thực chất là con của Lã Bất Vi với Triệu Cơ) lên ngôi, gọi là Tần vương Chính, tức Tần Thủy Hoàng sau này, tôn Lã Bất Vi làm tướng quốc, gọi là trọng phụ. Vua Tần tuổi nhỏ, nên quyên bính nằm trong tay Lã Bất Vi. Trong nhà Lã Bất Vi có đến vạn người.

Như vậy, coi như việc buôn… vua của Lã Bất vi đã thành công.

      Bấy giờ ở Ngụy có Tín Lăng Quân, ở Sở có Xuân Thân Quân, ở Triệu  có Bình Nguyên Quân, ở Tề  có Mạnh Thường Quân, đều đua nhau quý kẻ sĩ, chiều tân khách. Bất Vi thấy Tần mạnh mà mình không bằng họ nên xấu hổ cũng đón mời các kẻ sĩ đãi rất hậu, khách ăn trong nhà có đến ba nghìn. Khi ấy chư hầu có nhiều biện sĩ, như bọn Tuân Khanh làm sách truyền bá ra thiên hạ. Bất Vi bèn sai các khách soạn ra những điều mình biết, họp lại làm tám Lãm, sáu Luận, mười Kỷ gồm hơn hai mươi vạn chữ, cho là đủ hết những việc trời đất, muôn vật, xưa nay. Đặt tên sách là Lã Thị Xuân Thu  bày ở cửa chợ Hàm Dương, đặt nghìn lạng vàng lên trên, mời các du sĩ của chư hầu ai có thể thêm bớt một chữ thì xin biếu một nghìn lạng vàng.

Nhưng cuộc đời kẻ buôn… vua cuối đời cũng bi đát lắm.

ĐK

Chương 1: Lời Nói Đầu, Lã Bất Vi, Tác Giả Hàn Diệu Kì

ĐÔI LỜI VỀ TÁC GIẢ

Hàn Diệu Kì là hội viên của Hiệp hội các nhà văn Trung Quốc. Ông sinh tháng 6 năm 1951 tại thị trấn Công Chủ Linh.

Năm 1975 tốt nghiệp khoa trung văn Học viện Sư phạm Tây Bình. Ông đã từng là thành phần trí thức, thương gia, sáng tác gia, biên tập viên, phóng viên, thư ký của Bí thư Ủy ban nhân dân thành phố, nhưng ông hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực sáng tác những tác phẩm văn học mang tính ghi chép lại sự thực. Những tác phẩm nổi tiếng: tiểu thuyết “Nơi xa xưa”, những tác phẩm chuyên ngành “Diện mạo Mãn tộc đời Thanh”. Hiện nay ông giữ chức Phó chủ nhiệm Trung tâm sáng tác văn học tỉnh Cát Lâm, kiêm Tổng thư ký Hội liên hiệp hữu nghị thương – tác gia tỉnh Cát Lâm.

LỜI NÓI ĐẦU

Khi chúng ta dùng ngòi bút của mình để phủi đi những lớp bụi lịch sử trên con người Lã Bất Vi thì chúng ta không những bị thu hút bởi những biến cố thăng trầm rung động lòng người mà con người này đã trải qua, bởi một tình yêu sâu đậm mà còn bị những tư tưởng mới vượt xa hơn người của ông ta lôi vào vòng cuốn. Ví như Lã Bất Vi có khí phách của người anh hùng dám đương đầu với sóng gió. Ông ta và phụ thân của mình đều là thương nhân của nước Vệ. Có lần Lã Bất Vi hỏi cha: ”Làm ruộng thì số lời sẽ thu là bao nhiêu?”, cha ông ta trả lời : “Một trăm lần”; ông ta lại hỏi tiếp: “Lập một quốc vương thì có thể thu lợi là bao nhiêu?”. Lần này cha ông không biết trả lời sao. Ông ta nói với cha mình rằng : “Lập một quốc vương thì món lời đó sẽ không thể tính được”. Vậy mà trong cuộc chém giết nhau trên chiến trường và tranh giành nơi triều chính, thậm chí đôi lúc mạo hiểm cả tính mạng; nhưng Lã Bất Vi vẫn không hề tỏ ra run sợ, ông ta sẵn sàng đương đầu đón nhận những nguy hiểm đó. Và sau những nỗ lực, gian khổ, cuối cùng ông ta đã thành công. Ví như tư tưởng thiên hạ chi công của Lã Bất Vi trong cuốn “Lã Thị Xuân Thu. Qúy Công” có viết: “Thiên hạ giả, phi nhất nhân chi thiên hạ, thiên hạ chi thiên hạ dã. Âm dương chi hòa, bất tưởng nhất loại, cam lộ thời vũ, bất tư nhất vật; vạn dân chi chủ, bất a nhất nhân”. Câu nói này thật hay biết bao. Nó có nghĩa là: Thiên hạ không phải là thiên hạ của riêng ai, mà là thiên hạ của mọi người; khi âm dương kết hợp với nhau một cách tự nhiên thì những vật phẩm được sinh ra từ sự kết hợp đó sẽ không phải chỉ có duy nhất một loại; khí hậu mưa thuận gió hòa thì những sinh vật được hưởng những ưu đãi này cũng không phải chỉ có một loài: chủ của muôn dân cũng không phải chỉ có một người.

Lại ví như chủ trương mai táng của Lã Bất Vi.Ông ta bảo: “Ngày xưa vua Nghiêu sau khi mất đã được chôn cất tại Cốc Lâm, trên mộ trồng vô số cây: Vua Thuấn sau khi mất thì được chôn tại Kỉ Thị và vẫn cho mọi người buôn bán, họp chợ tại nơi đó ; vua Vũ thì được chôn tại Hội Kê, cũng không phải sử dụng đến nhân lực, vì vậy tiên vương cũng phải tiết kiệm trong việc chôn cất (Xem Lã Thị Xuân Thu. An Tử).

Có thể nói một cách không khoa trương rằng những tư tưởng tiến bộ của dân tộc Trung Hoa từ thời xa xưa đều có thể tìm thấy trong quỹ đạo khởi đầu trong thế giới tinh thần của Lã Bất Vi.

Tính cách chính là vận mệnh. Năm 246 trước CN, Tần Thủy Hoàng mới chỉ có mười tuổi đã lên kế vị. Lã Bất Vi nhiếp chính với danh nghĩa “Trọng phụ” và tướng quốc, và đã trở thành người cầm quyền sinh sát chính thức của nước Tần. Lúc này cũng chính là lúc nước Tần cầm quân đi thôn tính sáu nước và giành được thắng lợi liên tiếp. Trên một góc độ nào đó, thì chính Lã Bất Vi là người đã đặt nền móng cho sự thống nhất thiên hạ của nước Tần.

Mười một năm sau đó, Tần Thủy Hoàng chính thức lên nắm quyền. Lã Bất Vi bị cách chức, cuối cùng trên đường cùng uống thuốc độc tự kết liễu đời mình. Kết cục bị thảm của Lã Bất Vi là do hai mâu thuẫn gây ra. Thứ nhất là mâu thuẫn giữa cái tôi trong tính cách của ông ta. Mâu thuẫn giữa ông ta và Tần Thủy Hoàng là đối lập nhau. Trong cuốn “mười điều phê phán của Quách Mạt Nhược đã nêu ra mười nội dung: chú trọng việc dùng đức để trị hay dung hình phạt để trị? Quan thiên hạ hay gia thiên hạ, quân chủ chiêu hiền hay là quân chủ cực quyền, tôn sự trọng Nho giáo hay là đốt sách bài Nho v.v… Tần Thủy Hoàng không thể tha thứ cho những ai có ý chống đối với mình, mặc dù người đó là Lã Bất Vi – người cùng dòng máu với mình, người đã giúp ông ta xây dựng cơ nghiệp. Những mâu thuẫn: tiến thủ và trốn tránh, bác ái và nhỏ nhen, khôn khéo và thẳng thắn trong tính cách của Lã Bất Vi. Ví như, ông ta phải ghìm long để dâng người thiếp yêu của mình là Triệu Cơ cho Dị Nhân trở thành vua Nước Tần, nhưng tình yêu của Triệu Cơ đối với Lã Bất Vi vẫn còn nguyên vẹn. Sau khi hai người lén lút gặp nhau thì cái chủ trương kiềm chế và tâm lý phòng nguy hiểm đã khiến Lã Bất Vi phải rời xa chốn buồng the nơi hậu cung và tìm Lao Ái – tên giả hoạn quan để thay thế mình. Hành động rút lui đó của Lã Bất Vi không chỉ tạo ra một khoảng trống trong tâm hồn của Vương hậu mà còn tạo ra không gian quyền lực, rất nhanh Lao Ái đã tạo dựng cho mình thế lực chính trị trogn cung. Bị vây chặt giữa hai thế lực là Tần Thủy Hoàng và Lao Ái, Lã Bất Vi không còn sức chống chọi nữa. Con người nếu rơi vào cái mâu thuẫn nội tại của chính bản thân mình thì có thể coi như vô tội, đồng thời với việc tạo dựng và phân tích con người Lã Bất Vi, chúng ta có lý do để thông cảm với nhân vật đầy tính bi kịch này.

HÀN DIỆU KÌ

Trường Xuân tháng 12-2000

Những Câu Chuyện Phật Dạy Về Sự Tha Thứ Đáng Suy Ngẫm

Đức Phật đã dạy rằng:”Tài sản quý giá nhất của đời người chính là lòng khoan dung”. Sự tha thứ và lòng khoan dung không chỉ đem đến sự bình an, an lạc cho người khác mà còn cho chính bản thân mình.

Câu chuyện Phật dạy về sự tha thứ đáng suy ngẫm

Ngài Đại Trưởng lão Ghosananda, một Tỷ-kheo Nguyên thủy, được biết đến với danh hiệu là “Gandhi của Campuchia”. Ngài thường hướng dẫn những cuộc thiền hành Dhammayietra (Cuộc hành hương của chân lý) vào đầu những năm 1990, sau khi các hiệp ước hòa bình chấm dứt cuộc nội chiến giữa Khờ-me Đỏ và chính quyền Campuchia mới đã được ký kết.

Khi ngài Ghosananda mất năm 2007, ở tuổi 78, một bài điếu văn đăng trên báo The Economist đã tả chi tiết về những trải nghiệm của ngài khi đi xuyên suốt Campuchia sau chiến tranh. Ngài thường thấy chiến tranh vẫn còn dữ dội. Rốc-két vẫn bay trên đầu người đi hành hương, các cuộc đọ súng vẫn xảy ra quanh họ. Một số người hành hương đã bị giết. Nhiều người vì sợ hãi đã quay trở về, nhưng ngài Ghosananda dứt khoát chọn đi qua những ngả đường còn có xung đột. Đôi khi những người thiền hành bị mắc kẹt vào giữa các dòng người tị nạn dài dằng dặc, chân sưng tấy giống như họ, lê lết theo những chiếc xe bò và xe đạp chở đầy gối nệm, nồi niêu và mấy chú gà. “Chúng ta phải có can đảm rời bỏ ngôi chùa bình an của mình”, ngài Ghosananda cương quyết nói, “để đi vào các ngôi chùa đầy dẫy khổ đau của chúng sanh”.

Dầu Khờ-me Đỏ đã không cho thờ cúng, đã cào bằng các tự viện, quăng các tượng Phật đã bị hủy hoại xuống sông, các tập quán cũ vẫn còn. Khi những người lính nghe ngài Ghosananda khuyên bảo, “Sân hận không thể xóa bằng sân hận; sân hận chỉ có thể xóa bằng tình thương yêu”, họ đã buông bỏ vũ khí, quỳ xuống ven đường. Dân làng mang nước ra để ngài tịnh hóa, và họ ghim những cây nhang đang cháy vào đó như là dấu hiệu chiến tranh đã chấm dứt… Ngài không thể rời bỏ thế gian. Thay vì chỉ dốc tâm lo cho tự viện của mình, ngài đã dựng lên những căn lều tạm làm chùa trong các trại tị nạn.

Trưởng lão Ghosananda đã xây dựng các ngôi chùa này dù các thế lực tàn dư của Khờ-me Đỏ đã đe dọa giết ngài nếu không vâng lời chúng. Khi hàng ngàn người tị nạn kéo đến các chùa này, ngài phát cho họ bản kinh Tâm từ của Đức Phật in trên những tờ giấy sờn rách:

Với tâm rộng mở

Ta ôm ấp tất cả mọi chúng sanh:

Lòng từ chói sáng khắp muôn phương,

Lên thấu trời xanh,

Xuống tận đất cùng.

Câu chuyện này là một sự nhắc nhở sâu sắc về những gì việc tha thứ có thể làm được. Gia đình của Trưởng lão Ghosananda đã bị Khờ-me Đỏ tiêu diệt, và suốt thời gian họ cai trị, các vị sư Phật giáo bị coi là những ký sinh trùng của xã hội. Họ bị lột áo tu, buộc làm lao công hay bị giết hại: trong số 60.000 vị sư, sau chiến tranh ở Campuchia chỉ còn lại 3.000 vị. Nhưng không kể những gì ngài đã phải hứng chịu dưới thời Khờ-me Đỏ, Trưởng lão Ghosananda vẫn dành sự tha thứ trong tâm cho họ.

Câu chuyện Phật dạy về sự tha thứ đáng suy ngẫm

Xưa kia, có một vị hòa thượng đi đến một gia đình giàu có hóa duyên vào lúc trời đang mưa tầm tã. Vị hòa thượng cũng xin được ngủ lại nhà vị phú hộ này một đêm. Nhưng chủ nhà lại một mực không cho hòa thượng vào ngủ nhờ, vì vậy, hòa thượng đành nằm ngủ ngoài hiên cổng, nhẫn chịu đói và chịu lạnh.

Sáng sớm ngày hôm sau, người quản gia của gia đình đó ra mở cổng, nhìn thấy hòa thượng đã toàn thân ướt hết, đang run lên vì lạnh. Vị hòa thượng hỏi tên họ của người chủ nhà rồi vội vã rời đi.

Nhiều năm sau, vị hòa thượng ấy trở thành sư trụ trì trong ngôi chùa lớn. Người vợ của vị phú hộ kia muốn đến chùa bái lễ. Vừa tiến đến cổng chùa, bà nhìn thấy rõ tên chồng mình được khắc trên tấm bảng treo trên một cây cột đặt nơi ra vào. Người vợ của phú hộ kia thấy vô cùng kỳ lạ, bèn tiến đến hỏi một vị hòa thượng nguyên do.

Hòa thượng nói: “Bởi vì chủ nhà này từng không chịu bố thí tăng nhân, nên sư trụ trì chùa chúng tôi mới ghi lại tên của ông ấy.”

Người vợ phú hộ kia giận dữ nói: “Sao sư trụ trì của chùa các ông lại có lòng dạ nhỏ mọn, hẹp hòi như vậy?”

Vị hòa thượng nói: “Cũng không phải như thí chủ nghĩ! Sư trụ trì chùa chúng tôi cho rằng, gia chủ không bố thí tăng nhân, nhất định là còn có ác duyên chưa dứt bỏ từ tiền kiếp, vì vậy, sư trụ trì mới ghi lại tên của gia chủ vào tấm bảng kia. Mỗi ngày, khi tụng kinh niệm Phật, ngài đều cầu nguyện cho gia đình họ bình an, may mắn, nhằm hóa giải ác duyên kia.”

Sau khi nghe xong những lời này, người vợ phú hộ cảm động mãi không thôi, lập tức trở về nhà kể lại cho chồng bà nghe hết thảy mọi chuyện.

Vị phú hộ sau khi nghe xong, trong lòng vô cùng hối hận, liền tự mình đến chùa dâng hương, đáp tạ sư trụ trì. Cũng từ đó, gia đình phú hộ tình nguyện cung cấp lương thực, nuôi dưỡng toàn bộ tăng nhân và tu sửa chùa.

Câu chuyện cho chúng ta thấy rằng, thiện có thể hóa giải oán duyên. Oan oan tương báo đến khi nào mới thôi? Chi bằng hãy dùng tâm từ bi, lòng khoan dung mà thiện giải!

Câu chuyện Phật dạy về sự tha thứ đáng suy ngẫm

Trong cuốn “Duyệt vi thảo đường bút ký” có ghi chép lại, vị ngự sử Hồ Mục Đình, triều đại nhà Thanh từng kể rằng:

Quê hương ông có một gia đình nhà nọ nuôi một con lợn. Điều đặc biệt là con lợn này mỗi lần nhìn thấy người hàng xóm tên là Vương thì đều nhảy lên, điên cuồng hò hét, chỉ muốn xông ra đuổi cắn ông ta. Nhưng gặp bất kể người nào khác trong làng thì nó đều rất bình thường.

Ông Vương lúc đầu thấy vậy liền vô cùng phẫn nộ, vì thế ông liền muốn mua con lợn đó về giết thịt cho hả giận. Không lâu sau, ông Vương lại nghĩ: “Liệu đây có phải là do kết duyên oán thù từ kiếp trước giống như bên nhà Phật thường hay giảng không? Trên thế gian này, không có thù oán nào là không thể giải được!”

Nghĩ vậy, ông Vương liền mua con lợn ấy về nhà và nuôi dưỡng đến lúc con lợn mất đi theo tự nhiên. Nhưng điều đặc biệt là, từ ngày ông Vương nuôi dưỡng con lợn ấy, nó không hề thể hiện thái độ hung hãn như trước đây nữa.

Lòng khoan dung thực sự có sức mạnh cảm hóa vô cùng mãnh liệt. Nó giúp người xấu trở nên tốt, giúp người ác trở nên lương thiện, giúp người với người gắn kết với nhau hơn, xích lại gần nhau hơn và xã hội trở nên bình yên, tốt đẹp hơn!

Tâm Như

Tử Vi Số Mệnh: Những Câu Nói Hay Về Sự Dối Trá Đáng Suy Ngẫm Nhất Đời Người

Trong cuộc sống, sẽ không có ít lần bạn phân vân rằng không biết nên nói dối hay nói sự thật. Và khi bạn tìm hiểu qua những câu nói hay về sự dối trá bạn sẽ phần nào hiểu rằng nói dối trong một số trường hợp là không thể tránh khỏi, hoặc là thực sự cần thiết. Vì thế, hãy cân nhắc là lời nói dối cũng như lời nói thật trong từng hoàn cảnh cụ thể để có quyết định đúng đắn nhất cho mình.

1. Nói dối chẳng khác nào đi lạc trong rừng, càng đi sâu càng khó tìm lối ra.

2. Lời nói dối không có chân, nhưng tai tiếng thì có cánh. (Thomas Fuller)

3. Dối trá và lừa lọc là hành động của kẻ ngu xuẩn không có đủ trí óc để trung thực.(Benjamin Franklin)

Những câu nói hay về sự dối trá bạn sẽ thấy trong một số trường hợp lại cần phải nói dối

12. Sự thật thường là một thứ vũ khí công kích kinh khủng. Có thể dối trá, thậm chí giết người, với sự thật.

13. Dối trá không nằm trong ngôn từ; nó nằm trong sự việc

14. Đứng trước kẻ phản bội mình hãy ngẩng cao đầu và mỉm cười thật tươi dù sao đó bạn có phải đứng ở góc khuất khóc thật to. Đấy chính là cách trả thù xứng đáng nhất.

16. Đa số người cả đời chỉ làm được ba việc: Dối mình, dối người, và bị người dối. (Phật học Trung Hoa)

17. Nếu bạn cũng một lúc có thể yêu 2 người. Thì cứ hãy chọn người thứ 2. Bởi nếu đã thực sự yêu người thứ nhất, bạn đã không thể yêu thêm một ai nữa rồi.

18. Một tình yêu giả dối thì sẽ không bao giờ đạt được hương thơm trái ngọt.

19. Sự thật có thể chỉ khiến chúng ta đau khổ trong một lúc, nhưng nỗi đau mà bạn trải qua vì bị lừa dối thì có thể sẽ kéo dài đến hết đời.

20. Đừng lừa gạt bản thân mình! Trong tất cả những kẻ lừa gạt, hãy sợ bản thân mình nhất! (Soren Kierkegaard)

21. Tâm là tên lừa đảo lớn nhất, người khác có thể dối bạn nhất thời, nhưng nó lại gạt bạn suốt đời. (Phật học Trung Hoa)

22. Một vài người nghĩ rằng có thể giấu đi sự thật với một chút bao che và tô điểm. Nhưng khi thời gian trôi đi, sự thật sẽ lộ ra, và điều giả dối sẽ phai mờ. (Ismail Haniyeh)

23. Sự đau đớn buộc ngay cả người trong sạch cũng phải nói dối. (Publilius Syrus)

24. Không có sự dối trá, nhân loại sẽ diệt vong vì tuyệt vọng và buồn chán. (Anatole France)

25. Sự thật thường là một thứ vũ khí công kích kinh khủng. Có thể dối trá, thậm chí giết người, với sự thật. (Alfred Adler)

26. Sự thật luôn luôn ít căng thẳng và tốn ít công sức ơn là cố bao che cho lời nói dối. (John Reyes)

27. Khi một người không thể tự lừa dối chính mình, anh ta hiếm khi có thể lừa dối người khác. (Mark Twain)

28. Loại sách lịch sử không chứa đựng chút dối trá nào cực kỳ buồn chán. (Anatole France)

29. Chỉ sự lừa lọc và dối trá sợ kiểm tra. Sự thật mời gọi nó. (Samuel Johnson)

30. Đôi khi lời nói dối của những người ta yêu thương làm giảm bớt cho ta phiền muộn hơn là những lời nói thật. (Lord Byron)

Bạn đang xem bài viết Chuyện Xưa Ngẫm Cho Vui : Lã Bất Vi Buôn … Vua trên website Boxxyno.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!