Xem Nhiều 3/2023 #️ Ca Dao Tục Ngữ Về Biển # Top 10 Trend | Boxxyno.com

Xem Nhiều 3/2023 # Ca Dao Tục Ngữ Về Biển # Top 10 Trend

Cập nhật thông tin chi tiết về Ca Dao Tục Ngữ Về Biển mới nhất trên website Boxxyno.com. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.

Sông sâu mà biển cũng sâu Muốn ăn cá lớn, rong câu cho dài

Dốc lòng trồng cúc bẻ bông Ngó ra ngoài biển thấy ông đưa đò Anh ở làm sao cho biết đói biết no Biết ra khơi về lộng đây em lo kết nguyền

Trời sinh có biển có nguồn Có ta, có bạn, còn buồn nỗi chi?

Tháng chín mưa giông thuyền mong ghé bến Từ nơi bãi biển qua đến buổi chợ chiều Nuôi con chồng vợ hẩm hiu Nhà tranh một mái tiêu điều nắng mưa

Động bể đông bắc nồi rang thóc Động bể bắc đổ thóc ra phơi

Sự đời nghĩ cũng nực cười Một con cá lội mấy người thả câu Anh về xẻ gỗ bắc cầu Non cao anh vượt biển sâu anh dò Bây giờ sao chẳng bén cho Xa xôi cách mấy lần đò cũng đi

Trời cao hơn trán Trăng sáng hơn đèn Kèn kêu hơn quyển Biển rộng hơn sông Anh đừng thương trước uổng công Chờ cho thiệt vợ, thiệt chồng hãy thương

Ai về em gởi bức thơ Hỏi người bạn cũ bây giờ nơi nao Non kia ai đắp mà cao Sông kia, biển nọ ai đào mà sâu

Non cao, biển cả Con chim tra trả tìm mồi Khi mô vật đổi sao dời Đất Quảng Nam hết nước mới hết người tài hoa

Bãi biển Nha Trang mịn màng, trắng trẻo Nước trong leo lẻo, gió mát trăng thanh Đêm đêm thơ thẩn một mình Đố sao cho khỏi vướng tình nước mây?

Ngó lên trên rừng thấy cặp cu đang đá Ngó về dưới biển thấy cặp cá đang đua Biểu anh về lập miếu thờ vua Lập lăng thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

Ngó lên rừng thấy cặp cua đang đá Ngó xuống biển thấy cặp cá đang đua Biểu anh về lập miếu thờ vua Lập lăng thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

Ngó lên rừng thấy cặp cu đương đá, Ngó về Rạch Giá thấy cặp cá đương đua. Anh về lập miếu thờ vua, Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

Ngó lên trời thấy mây giăng tứ diện, Ngó xuống biển thấy chim liệng cá đua. Anh về lập miễu thờ vua, Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.

Biển cạn, sông cạn, lòng qua không cạn Núi lở non mòn, ngỡi bạn không quên Ðường còn đi xuống đi lên, Tình qua nghĩa bậu quyết nên vợ chồng.

Sông cạn, biển cạn lòng ta không cạn Núi lở non mòn, nghĩa bạn không quên Đường còn đi xuống đi lên Ơn bạn bằng biển, ta đền bằng non Đường mòn duyên nợ không mòn Chết thì mới hết, sống còn gặp nhau Lời nguyền trước cũng như sau Em không phụ khó, ham giàu ở đâu

Sông sâu còn có kẻ dò Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng

Lụa tốt xem biên Người hiền xem tướng

Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa Em thương anh không dám nói ra Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời Anh với em cũng muốn kết đôi Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan.

Đố ai tát bể Đông Khê Tát sông Bồ Đề, nhổ mạ cấy chiêm

Biển Đảo Trong Tục Ngữ, Ca Dao Ở Hội An

Ở các địa phương này biển đảo là đối tượng chủ yếu của các đơn vị tục ngữ, ca dao. Biển đảo cũng đã có mặt trong nhiều đơn vị ca dao, tục ngữ sưu tầm được ở các địa bàn khác của Hội An chứng tỏ ảnh hưởng sâu rộng của biển đảo trong đời sống vật chất và tinh thần của cộng đồng cư dân địa phương. Các đơn vị ca dao, tục ngữ về biển đảo đã góp phần quan trọng làm nên sự phong phú, đa dạng và sắc thái riêng có của kho tàng di sản văn nghệ dân gian Hội An nói riêng, xứ Quảng, Đàng Trong nói chung và mặt khác, quan trọng hơn, chúng chứng tỏ rằng từ lâu đời người dân ở đây đã có cuộc sống gắn bó máu thịt với biển đảo, không ngừng vươn ra chiếm lĩnh biển đảo để làm không gian sinh tồn và sáng tạo nên nhiều giá trị văn hóa có giá trị, trong đó có các đơn vị ca dao, tục ngữ về biển đảo.

Trước hết những câu ca dao, tục ngữ này cho thấy nhận thức, tâm thức của người dân địa phương về biển đảo mà cụ thể ở đây là biển Đông. Đối với họ, biển đảo không phải là nơi ” lạ bến đậu nhờ ” mà là quê hương gần gũi, thân thương, gắn bó:

– Quê ta biển bạc non vàngBiển bạc Đông Hải, non vàng Bồng Miêu– Cù Lao đảo nhỏ quê taDạt dào sóng biển thuyền ra thuyền vàoĐêm nằm ngữa mặt trông saoTrông cho biển lặng cá vào đầy ghe– Ra Lao bước tới Mồ DàiGần Khô có Lá gần Tai có NồmBiển bạc có nhiều cá tômRừng vàng tươi thắm hoa thơm bốn mùaHỏi rằng đây phải Cù LaoThưa rằng Tân Hiệp đã bao nhiêu đời[1]

Qua các câu ca dao, tục ngữ trên và qua nhiều câu khác không trích dẫn ở đây ta thấy biển đảo hiện ra rất thân thương, gần gũi, gắn bó với con người, biển đảo là quê hương, quê ta, quê mình chứ không hề là môi trường xa lạ, tạm thời, là nơi sống nhờ ở đậu. Đàng sau các câu chữ là một tình yêu mãnh liệt, nồng thắm đối với quê hương, biển đảo. Biển đảo qua các sáng tác dân gian cũng hiện lên rất đỗi tươi thắm, giàu đẹp không thua kém bất cứ một miền quê nào khác. Biển bạc, rừng vàng không hề là những câu hoa ngữ, khoa trương mà rất cụ thể với các nguồn tài nguyên phong phú vốn có của mình. Biển bạc Đông Hải là một hiển hiện thực tế sau những vụ mùa bội thu tôm cá:

– Được cá làng Gành ghe mành chở gạo

Hoặc biển bạc hiện ra với những tổ chim yến quý hiếm, được xem là vàng trắng của phương Đông:

– Lao Chàm nắng đẹp ban maiCó đàn chin yến kéo dài mùa xuân– Rủ nhau cơm gói ra HònMuốn ăn được yến phải lòn hang Khô

Cho dù biển khơi không phải lúc nào cũng trời yên gió lặng mà có lúc trái tính trái nết nhưng không vì thế mà người dân ở đây chối bỏ, xa cách biển. Họ vẫn kiên trì bám biển, dựa vào biển để sống với ước mơ biển đảo sẽ đem lại cho mình nhiều điều tốt đẹp, cuộc sống no đủ:

– Ra khơi bữa có bữa khôngLạy trời đừng để tố giông cho mình

Biển đảo là quê hương đồng thời cũng đã đem lại cho cộng đồng dân cư ở đây một cái nhìn toàn diện về sự rộng lớn, bao la của đất nước, của tổ quốc. Từ rất sớm trong ca dao tực ngữ đã hình thành quan niệm, cách nhìn về phạm vi lãnh thổ của đất nước không chỉ gồm đất đai, rừng núi, sông hồ mà còn có cả biển đảo. Đó là một chỉnh thể không thể chia cắt, tách rời.

– Sông Thu khúc lỡ, khúc bồiKhúc mô lỡ lỡ hết khúc mô bồi bồi luônTrời sinh ra có biển có nguồnCó ta có bạn bạn buồn nỗi chi

Quan niệm, nhận thức này đã được định hình và ăn sâu vào tâm thức của người dân địa phương để khi nói về quê hương họ có cái nhìn kết nối giữa núi rừng và biển đảo:

” Ngó lên trên rừng ngó về dưới biển” là câu nói cửa miệng và là mô típ lặp đi lặp lại ở nhiều đơn vị ca dao, tục ngữ của địa phương. Thật ra, điều này không có gì lạ khi ta đọc lại truyền thuyết Con Rồng Cháu Tiên với 50 người con theo mẹ lên núi và 50 người con theo cha xuống biển. Đó chính là địa bàn cư trú truyền thống của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trong đó biển là môi trường mang tính cội nguồn. Có lẽ do tâm thức này mà tại địa phương có tục gát đòn đông nhà phải theo quy định ” Gốc biển ngọn nguồn “, gốc của cây đòn đông phải luôn quay về hướng đông, hướng biển, ngọn quay về hướng Tây, hướng núi.

Cùng với việc thể hiện tình cảm gắn bó đối với quê hương biển đảo những đơn vị ca dao, tục ngữ nêu trên còn là sự khẳng định tư thế làm chủ của người dân địa phương đối với biển đảo nơi mình sinh sống. Các câu ca dao, tục ngữ với những địa danh cụ thể được xác định là quê mình, quê ta như Đông Hải, biển Đông, Cù Lao, hòn Khô, Lá, Tai, Nồm,… và nhiều địa danh biển đảo khác chứng tỏ chúng là những vùng biển đã được khai phá, chiến lĩnh và có chủ quyền từ lâu đời. Có thể nói đây là những tấm bản đồ xác định chủ quyền biển đảo bằng ca dao, tục ngữ.

Qua các đơn vị ca dao, tục ngữ sưu tầm được cho ta thấy rằng người dân ở đây có những hiểu biết rất sâu sắc về biển đảo chứ không phải ” xa rừng nhạt biển ” như một số người nhận xét. Sự hiểu biết sâu sắc này là kết quả của quá trình chung sống lâu dài và không ngừng tìm tòi, khám phá để khái quát, tập hợp thành kho trí thức đồ sộ về biển đảo được diễn đạt, thể hiện ở nhiều hình thái, loại hình văn hóa vật thể và phi vật thể, trong đó có ca dao, tục ngữ.

Trước hết đó là những câu ca dao, tục ngữ ghi lại những kinh nghiệm về thời tiết trên biển, về đặc điểm, tính chất của biển đảo.

Rõ ràng đây là những nhận xét, tri thức của những người từng chung sống, lặn lội với biển, rất hiểu biết về biển kể cả về đặc điểm, tiềm năng, lợi thế về cả những hiểm nguy, bất trắc do biển mang lại. Các câu ca dao, tục ngữ trên cũng cho thấy để thích ứng với biển ngoài sự đoàn kết, đồng lòng, tính gan dạ, dũng cảm dám đương đầu với sóng gió thì sự hiển biết vể biển, kỹ năng đi biển cũng hết sức quan trọng.

Đó là những tố chất, đức tính cần thiết để chung sống với biển và trở thành là dân biển thực thụ.

Ảnh hưởng và sự thâm nhập sâu sắc của biển đảo trong đời sống tinh thần của cư dân địa phương còn được thể hiện ở chỗ hình tượng biển đảo xuất hiện ở nhiều đơn vị ca dao, tục ngữ để chỉ những điều thiêng liêng cao quý, những cung bậc tình cảm; để diễn đạt tình yêu đôi lứa thủy chung cũng như sự chia ly, xa cách…

Khi nói về công ơn lớn lao của cha mẹ các tác giả dân gian địa phương đã đi từ mô thức truyền thống ” Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra” để có cách diễn đạt mới gắn với biển cả:

– Cha mẹ nuôi con biển hồ lai lángCon nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày– Ngó ra ngoài biển dờn dờnCửa tiền chất đống cũng không bằng công ơn cha mẹ giàSớm mai cơm, trưa cháo chiều tràƠn Cù Lao chín chữ bạn mà chớ quên

Biển cả cũng đã cho ta một câu khẩu ngữ để diễn đạt công ơn sinh thành, dưỡng dục là ” công ơn trời biển “. Cách diễn đạt này có chiều sâu và mang tính khái quát hơn. Rõ rang núi, sông còn có giới hạn và có thể xác định nhưng trời biển, biển cả thì thật vô hạn và mang tính thiêng liêng, làm sao có thể xác định được.

Hoặc khi nói về sự thâm sâu, khó dò của lòng người, các tác giả dân gian ở đây có cách diễn tả rất độc đáo, khác với truyền thống:

– Dò sông dò biển dễ dòNào ai lấy thước mà đo lòng ngườiLòng người thăm thẳm mù khơiKhông bờ không bến biết nơi mô dòLòng người thăm thẳm sao đoAi đo dài ngắn ai dò nông sâu

Lòng người ở đây không còn được so sánh với sông sâu như truyền thống ( Sông sâu còn có kẻ dò; Nào ai lấy thước mà đo lòng người) mà thay vào đó là biển khơi thăm thẳm. Hiệu quả của cách diễn đạt vì thế được tăng lên rõ rệt. Ở đây cho thấy biển đảo đã tạo nên một bước chuyển biến mới trong suy nghĩ, tâm thức của các lớp cư dân địa phương và thực tế này có thể xác định qua nhiều đơn vị ca dao tục ngữ.

Biển đảo cũng đã trở thành hình tượng trong nhiểu câu ca dao tục ngữ để diễn tả tình yêu đôi lứa với nhiều cung bậc và trạng thái khác nhau, tạo thành một nét riêng mới:

Ta thấy phải là những người dân biển thường xuyên hòa nhịp sống của mình với biển mới có cách diễn tả tình cảm sinh động và cụ thể đến như vậy.

Để diễn tả sự chung thủy, gắn bó trong tình yêu những câu ca dao miền biển cũng có cách diễn đạt mới mẻ, sinh động:

Bài ca có hai hình ảnh, hình tượng mới mẻ, đó là những chiếc ghe buôn, mà ở đây là ghe buôn biển và những cơn sóng biển được dùng để chỉ sự nhớ thương. Trong kho tàng ca dao truyền thống có câu:

– Qua đình ngã nón trông đìnhĐình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu

Cấu trúc câu ” Bao nhiêu… bấy nhiêu” vốn phổ biến ở nhiều vùng miền, nhiều đơn vị ca dao, dân ca. Đến Hội An, Quảng Nam và nhiều địa phương có biển cấu trúc này được vận dụng với hình tượng mới là sóng biển, lòng biển để chỉ sự nhớ thương, mức độ sâu đậm của tình yêu đôi lứa. Ta thấy ” đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu“, ” cau bao nhiêu lóng, thương chàng bấy nhiêu“, ” cầu bao nhiêu nhịp, thương nàng bấy nhiêu“, ” Đồng bao nhiêu lúa, thương chồng bấy nhiều “… là những biểu tượng có hạn, có thể xác định. Sóng biển, lòng biển thì vô hạn cả về bề rộng và chiều sâu, lại là hình tượng có tính động thể hiện rõ sự dạt dào, mênh mông của tình yêu đôi lứa.

Nhìn ý kiến xác đáng khi cho rằng ca dao,tục ngữ là tấm gương phản ảnh chân thực đời sống tình cảm, cách tư duy và thái độ của các cộng đồng dân cư trong những môi trường và điều kiện sống cụ thể. Các đơn vị ca dao, tục ngữ về biển đảo cũng vậy, chúng cho ta thấy rõ diện mạo những người dân biển chân chất, bộc trực, ăn sóng nói gió nhưng rất đổi nghĩa tình, gan dạ, sẵn sàng đương đầu với sóng gió, với hiểm nguy bất trắc để sinh tồn và phát triển. Cũng qua các đơn vị ca dao, tục ngữ này ra thấy biển đảo đã thâm nhập thực sự sâu sắc vào đời sống vật chất và tinh thần hàng ngày của cư dân địa phương tạo thành một truyền thống bền chắc về tương tác và thích ứng với biển đảo gồm nhiều sắc thái phong phú và đa dạng³

Ca Dao Tục Ngữ Về Rồng

Details Category: Kỹ năng mềm Published on Monday, 12 February 2018 02:12 Written by cudinhlang Hits: 5233

Rồng trong thành ngữ và tục ngữ Việt NamRồng lúc to lúc nhỏLớn thì đào sơn đảo hải – nhỏ ẩn tích tàn hình

Đa mưu túc trí muôn đời thịnh Hữu dũng vô mưu vạn đời suy Ghen ăn tức ở muôn đời nát Khiêm tốn nhường nhịn vạn kiếp sang.

Là con vật huyện thoại nhưng phổ biến, vừa cao quý, độc đáo, diệu kỳ lại vừa thân quen, gần gũi và giàu ý nghĩa biểu tượng, rồng (long) được lấy làm hình ảnh ẩn dụ sinh động cho nhiều câu thành ngữ, tục ngữ rộng rãi mà thâm thúy của người Việt Nam.* Ăn như rồng cuốn: Ăn nhanh, ăn đến đâu hết đấy.* Ăn như rồng cuốn, làm như cà cuống lội nước/uống như rồng leo, làm như mèo mửa: 1. Ăn nhiều, ăn tham mà làm ít, cẩu thả; 2. Ăn thật làm chơi.* Cá [chép] hóa rồng: 1. Học trò đi thi được đỗ đạt vinh hiển; 2. Người được thỏa chí, toại nguyện, thành đạt.* Cá gặp nước, rồng gặp mây: 1. Gặp môi trường thuận lợi, tương hợp, may mắn; 2. Cảnh sum vầy, hội ngộ.* Chạm rồng trổ phượng: 1. Trang trí lộng lẫy, tinh xảo, cầu kỳ; 2. Sự tô điểm rối rắm, rườm rà.* Con Rồng cháu Tiên: Dòng dõi đầy tự hào của dân tộc Việt Nam.* Dẫu ngồi cửa sổ chạm rồng, chiếu hoa nệm gấm không chồng cũng hư: Một quan niệm đề cao hạnh phúc gia đình.* Dựa mạn thuyền rồng: Được vua chọn làm cung phi, làm vợ hoặc lấy được người giàu sang.* Đầu rồng đuôi tôm/rắn: 1. Việc khi đầu thì hưng thịnh, sau thì suy yếu; 2. Chuyện lúc khởi đầu có vẻ to tát, đẹp đẽ nhưng kết thúc lại chẳng ra gì; 3. Sự cọc cạch, không tương xứng giữa những bộ phận có phẩm chất quá khác biệt trong cùng một chỉnh thể.* Đẹp duyên cưỡi rồng: Lấy được người chồng lý tưởng.* Gái có chồng như rồng có vây, gái không chồng như cối xay chết ngõng: Một quan niệm xưa, đề cao vai trò của người đàn ông, khẳng định phụ nữ cần thiết phải lập gia đình.

* Họa long điểm tinh (Vẽ rồng điểm mắt): Hành động đúng hướng, nắm bắt được trọng tâm của sự vật, sự việc.* Học chẳng biết chữ cu chữ cò, nói những chữ như rồng như rắn: Nói phét, nói suông, dốt hay nói chữ.* Hội long vân (Hội rồng mây): Cuộc gặp gỡ tốt lành, thời cơ thuận lợi.* Long bàn hổ cứ (Rồng cuộn hổ ngồi): Thế đất hiểm yếu, linh thiêng.* Long ly quy phụng (Rồng lân rùa phượng): Bốn con vật quý và thiêng theo quan niệm tín ngưỡng.* Lưỡng long chầu nguyệt: 1. Hình hai con rồng chầu chụm vào một mặt trăng thường thấy ở nơi thờ tự; 2. Một người tài giỏi lại có được hai người hỗ trợ, phò tá nhiệt tình, tương xứng và trung thành.* Mả táng hàm rồng: Gặp may mắn, tự nhiên ngày càng phát đạt thịnh vượng, [tưởng như] do mồ mả tổ tiên được chôn vào chỗ đất đẹp.* May hóa long, không may xong máu: Gặp may thì vinh hoa phú quý, không may thì chết.* Mấy đời gỗ mục đóng nên thuyền rồng: Bản chất đã xấu thì khó thể trở thành người tốt, kẻ thuộc tầng lớp dưới khó thể lên địa vị cao.* Nem rồng chả phượng: Món ăn ngon, cầu kỳ và sang trọng.* Như rồng gặp mây: Gặp người, gặp hoàn cảnh tương hợp, thỏa lòng mong mỏi khát khao.* Nói như rồng cuốn: Nói những lời hay ý đẹp nhưng nói suông, chẳng bao giờ thực hiện điều gì mình đã nói, đã hứa.* Nói như rồng leo: Nói năng khôn khéo, mạch bạo.* Rồng bay phượng múa: Hình dáng, đường nét tươi đẹp, uyển chuyển, phóng khoáng.* Rồng đen lấy nước thì nắng, rồng trắng lấy nước thì mưa: Một cách dự báo và lý giải trạng thái thời tiết qua hiện tượng thiên nhiên – mây (rồng lấy nước ở đây tức là đám mây hình cột từ phía biển vươn lên trời).* Rồng đến nhà tôm: Người cao sang đến thăm kẻ thấp hèn (thường thấy trong lời ngoại giao, nói nhún của chủ nhà với khách).* Rồng lội ao tù: Người anh hùng sa cơ thất thế, bị kìm hãm, tù túng, không có điều kiện thi thố tài năng.* Rồng mây gặp hội: Cơ hội may mắn cho sự gặp gỡ và hòa nhập.* Rồng nằm bể cạn phơi râu: Trạng thái thờ ơ vì bất lực của người vốn tài giỏi nhưng bị đặt trong môi trường khó hoạt động, khó phát triển được.* Rồng thiêng uốn khúc: Người anh hùng, tài giỏi nhưng gặp vận xấu, phải sống nép mình, ẩn dật chờ thời cơ.

* Rồng tranh hổ chọi: Hai đối thủ hùng mạnh giao đấu.* Rồng vàng tắm nước ao tù: Người tài giỏi ở trong hoàn cảnh bó buộc, bất lợi hoặc phải chấp nhận chung sống với kẻ kém cỏi.* Thêu rồng vẽ phượng: Bày vẽ, làm đẹp thêm.* Trai ơn vua – cưỡi thuyền rồng, gái ơn chồng – bồng con thơ: Một quan niệm xưa, cho rằng nghĩa vụ chính của người đàn ông là phụng sự nhà cầm quyền, còn của người đàn bà là chăm lo gia đình và con cái.* Trứng rồng lại nở ra rồng, liu điu lại nở ra dòng liu điu: Tính tất yếu của sự bảo toàn, di truyền những giá trị và bản chất nòi giống.* Vẽ rồng nên/ra giun: Có mục đích hay, tham vọng lớn nhưng do bất tài nên chỉ tạo ra sản phẩm xấu, dở.* Vẽ rồng vẽ rắn: Bày vẽ lôi thôi, luộm thuộm, rườm rà.

Ca Dao, Tục Ngữ Về Quảng Ninh

Câu ca dao, tục ngữ Quảng Ninh

Tục ngữ ca dao về chốn tâm linh

*Trăm năm tích đức tu hànhChưa đi Yên Tử chưa thành quả tu.

* Ai đi Yên Tử cùng anhKhói hương nghi ngút còn vương hạ Trần.

* Nào ai quyết chí tu hànhHãy về Yên Tử mới đành làm tu.

*Lần theo dấu tích ngàn xưaBảy trăm năm ấy bây giờ còn lưu.

* Vĩnh Nghiêm, Yên Tử, Quỳnh LâmAi chưa đến đó thiền tâm chưa đành.

*Miếu Đức Ông là nơi Cửa SuốtKhách vẫn lại thương nhớ cùng dâng.

* Bao giờ sấm chớp Chùa LôiCon ơi nhớ dậy mang nồi ra sân.

* Mồng bảy hội miếu Tiên CôngDưới là đánh vật trên rồng phi bay.Đêm thì hát đúm vui thayBên này thi cấy, bên đây đua thuyền.

*Chùa Quỳnh vui lắm ai ơiTrốn cha, trốn mẹ mà chơi Chùa Quỳnh.

* Chùa Quỳnh khánh đá, chuông đồngMuốn chơi thì lấy của chồng mà chơi.

Tục ngữ ca dao thời kì kháng chiến chống Pháp

* Vua thua ông huyện Hoành Bồ.

* Cọp dữ Mông Dương, nước độc Hà TuDa dày, bụng ỏng, mặt phù, chân sâu.

*Chưa đi chưa biết Vàng Danh Đi ra khốn khổ thân anh thế này.

*Chưa đi chưa biết Vàng DanhMá hồng để lại, má xanh mang về.*Ai đi Uông Bí, Quảng HồngCó đoàn vệ quốc dân công qua đèoAi về cho ta về theoCó sông cũng lội , có đèo cũng qua.

*Sông sâu còn có kẻ dòTội ác chủ mỏ ai dò cho ra.

* Đào than cho nó làm giàuXúc vàng đem đổ xuống tàu cho Tây.

* ở quê cái khổ bám theoRa mỏ cái khổ nó trèo lên lưng.

* Đau đẻ cũng phải xúc thanĐẻ rơi cũng mặc kêu van hững hờ.

*Lầm than cực khổ thế nàyXúc than cuốc đất suốt ngày lọ lem.

*Khi xưa nghe tiếng còi tầmNhư nghe tiếng vọng từ âm phủ về.

* Thẻ tôi lĩnh có hai đồngÔng cai lĩnh hộ trừ công năm hào.

*Cây mắm cò quămCây sú cù queoThắt lưng cho chặt mà theo anh vềĂn cơm với cá mòi heLấy chồng Cẩm Phả đun xe suốt đời.

* Ai ra Cẩm Phả mà xemRừng xanh ngăn ngắt, đất đen sì sìĐã làm cái kiếp cu liCòn gì là đẹp còn gì là vui.

* Đồn Cẩm Phả sơn hà bát ngátHuyện Hoành Bồ đồi cát mênh môngAi ơi, đứng lại mà trôngKìa khe nước độc, nọ ông hùm giàViệc gì mà rủ nhau raLàm ăn cực khổ nghĩ mà tủi thân.

* Ai về Yên Dưỡng, Hoành MôMà xem quân lính cụ Hồ sang sôngĐêm ngày mải mê chiến côngThoáng nom như có cả chồng em kia.

* Thuyền than mà đậu bến thanThương anh vất vả cơ hàn nắng mưa.* Thuyền than đậu bến đen sìAnh không ra mỏ lấy gì em ăn.

Ca dao tục ngữ giao duyên

* Ai về chợ huyện Thanh Vân

Bạn đang xem bài viết Ca Dao Tục Ngữ Về Biển trên website Boxxyno.com. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!